Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư La Quý (852 – 936) Thế hệ thứ 10 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi tại VN 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷

01/07/202109:31(Xem: 12583)
Thiền Sư La Quý (852 – 936) Thế hệ thứ 10 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi tại VN 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷



Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,


Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư La Quý (852-936). Ngài thuộc thế hệ thứ 10 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi tại Việt Nam. Bài pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 253 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch COVID-19.

Thiền sư La Quý là nhà phong thủy và cũng là một thiền sư chứng đắc thần thông như thiền sư Định Không, ngài đã tiên tri, dự báo về tất cả triều đại và chiến tranh của nước Việt Nam.

Sư họ Đinh người An Châu (nay là tỉnh Thái Bình), đi du phương từ thuở nhỏ, tham yết tất cả những bậc thầy nổi danh trong nhà Thiền. Trải nhiều năm như thế, mà pháp duyên chưa hợp, Sư sắp thối chí thì gặp thiền sư Thông Thiện ở chùa Thiện Chúng, nói một câu, tâm Sư liền khai ngộ. Từ đây Sư ở lại hầu hạ Thầy.


Sư Phụ giải thích: trong sử liệu không ghi lại câu gì giúp cho Thiền Sư La Quý ngộ đạo, nhưng nghe một câu liền khai ngộ là nhờ ngài đã trải qua thời gian tiệm tu từ nhiều năm trước đó với những bậc nổi danh trong nhà thiền.

Thiền sư Thông Thiện sắp tịch gọi Sư đến bảo:

- Xưa thầy ta là Định Không từng dặn dò rằng: “con khéo giữ gìn pháp của ta, gặp người họ Đinh sẽ truyền”. Ngươi gắng đảm đương lấy. Nay ta đi vậy.


Sư Phụ giải thích: qua đoạn này, ta biết thiền sư Thông Thiện, đời thứ 9, đệ tử nối pháp của Thiền Sư Định Không, nhưng sử liệu thất lạc vì chiến tranh, nên bộ sách Thiền Sư Việt Nam không có tiểu sử của Ngài. Thiền Sư La Quý họ Đinh, tên An, pháp hiệu La Quý đến học pháp với thiền sư Thông Thiện, ứng ngay với lời dự báo của TS Định Không “con khéo giữ gìn pháp của ta, gặp người họ Đinh thì truyền lại”.

Ngài La Quý đã được pháp tuỳ phương diễn hoá, chọn đất cất chùa. Mỗi khi nói ra lời nào đều phù hợp sấm ngữ. Sư tổ chức đúc tượng Lục Tổ Huệ Năng bằng vàng tại chùa Lục Tổ. Sau vì sợ trộm cướp nên đem chôn trước cửa chùa. Sư di chúc rằng:

Gặp vua sáng thì hiện
Thấy chúa tối thì ẩn.

Sư trụ trì chùa Song Lâm, làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức.

Lúc sắp viên tịch, Sư bảo đệ tử là Thiền Ông rằng:

- Thuở trước Cao Biền xây thành bên sông Tô Lịch, vì biết vùng đất làng Cổ Pháp có khí tượng đế vương, nên cho đào đứt con sông Điềm và những hồ ao liên hệ v.v... đến mười chín chỗ để mà ếm đó. Nay ta đã sai Khúc Lãm lấp lại như xưa. Lại ta có trồng một cây Mộc Miên ở chùa Minh Châu để trấn chỗ bị đứt. Biết sau này ắt có vua hiền ra đời, để vun bồi chánh pháp của ta. Sau khi ta viên tịch, ngươi nên đắp một nền đất và xây lên ngọn tháp, lấy pháp khí để kín trong ấy, chớ cho người thấy.

Nói xong, Sư thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi, nhằm niên hiệu Thanh Thái thứ ba nhà Hậu Đường (936).

Lúc trồng cây Mộc Miên, Sư có làm bài kệ:

Đại sơn đầu rồng ngửng

Đuôi to ẩn Châu Minh

Họ Lý nhất định thành

Cây gạo hiện hình rồng

Thỏ gà trong tháng chuột

Quyết định thấy trời lên.

(Đại sơn long đầu khởi

Cầu vỹ ẩn Chu Minh

Thập bát tử định thành

Miên thọ hiện long hình

Thố kê thử ngoạt nội

Định kiến nhật xuất thanh.)


Sư Phụ giải thích: bài kệ cũng là lời tiên tri của thiền sư La Quý. Trong câu “Thập bát tử định thành”, là sấm ngữ của ngài, rất độc đáo, chiết tự từ 3 chữ “thập”, chữ “bát” và chữ “tử” thành chữ “Lý”, Sư Phụ có viết đưa lên cho đại chúng xem, có nghĩa là “Họ Lý nhất định thành”, và Câu “Thỏ gà trong tháng chuột” ý nói “tháng 11 là tháng chuột năm con gà Kỷ Dậu, năm 1009”, quả thật vậy, đúng 73 năm sau tính từ năm ngài viên tịch 936, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập ra triều đại nhà Ký, kéo dài đến 9 triều vua và 216 năm.

Câu “Định kiến nhật xuất thanh” là “Quyết định thấy trời lên”, mặt trời lên là ý nói “ minh quân xuất hiện”.

Ngài La Quý cũng có có công lớn khi chính ngài tự tay trồng cây gạo (Mộc Miên) để trấn chỗ Long mạch bị đứt và sẽ có minh quân ra đời, ngài đã căn dặn dặn đệ tử Thiền Ông phải giữ gìn Long mạch cho Việt Nam, nếu không thì 73 năm sau xứ sở nước Việt không có họ Lý ra làm vua (năm 1009)

 





Sư Phụ có cho biết trong Đại Việt sử ký có ghi, nhờ cây gạo do Thiền Sư La Quý trồng trước chùa Minh Châu đã nối lại Long mạch bị Cao Biền đào đứt. Cây gạo là loài cây quý hiếm, tạo ra phong thủy tốt cho đất nước, cây cao khoảng 25m, táng rộng che mát giữa trưa hè, lá lớn như lá bàng, hoa đỏ giống hoa phượng vĩ; hoa gạo có thể dùng làm thảo dược để chửa bệnh suy nhược, sưng phù, sốt, quay bị...Cây gạo vừa giúp cho phong thủy, vừa là dược liệu.


Sau thời pháp thoại, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của thiền sư La Quý của Thầy Chúc Hiền cúng dường đến ngài thiền sư:


Thuở nhỏ vân du học đạo thiền
Nhiều năm chưa gặp được cơ duyên
Tâm tư muốn bỏ, minh sư hiện
Pháp hội khai thông, diệu tuệ truyền
Tỏ ngộ nguồn chơn tường thật tánh
Minh tri suối diệu thấu huyền nguyên
Thừa đương tổ nghiệp gìn ân đức
Sấm ký linh mầu ghi sử thiêng.


Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về thiền sư La Quý, ngài là vị thiền sư tuy đắc pháp lúc sắp thối chí nhưng rất nhẹ nhàng. Sư chứng đắc thần thông giống như thiền sư Định Không. Sư đã cho nối lại long mạch mà Cao Biền đã trấn ểm cắt đứt, nhờ đó nhà Lý được hưng thịnh suốt hơn 200 năm. Sự ra đời của Sư với tài tiên tri và dùng thuật phong thủy để gìn giữ long mạch vượng khí cho nước Việt Nam và cũng là niềm tự hào của người con dân đất Việt.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).     

 



253_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su La Quy



Thiền Sư La Quý và những sấm ký truyền đã đi vào
Lịch Sử Việt Nam cùng với Sư Ông của mình: Thiền Sư Định Không !
( Ngài Định Không đã đi chúc lại cho đệ tủ nối pháp là
Thiền Sư Thông Thiện hãy giao lại gia tài pháp bảo cho đệ tử Họ Đinh : đó là
Thiền Sư La Quý (852 – 936) Thế hệ thứ 10 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi tại VN)



Kính dâng Thầy bài trình pháp về Thiền Sư La Quý . Thật là một Phước duyên được nghe lại những mẫu chuyện rất hiển linh về trấn yểm và phong thủy phù phép ...Nhưng nhờ đó con đã chiêm nghiệm và học được một điều chỉ có Tâm và Đức là phong thủy lớn nhất của đời người cho nên " Đạo cao long hổ phục , Đức trọng quỷ thần khâm " với số mệnh Đế Vương của Ngài Lý Công Uẩn dù Cao Biền có trấn yểm long mạch thì đã có Ngài La Quý khôi phục lại . Kính tri ân Thầy với Vô Sư Trí thấm đượm kiến thức thật uyên bác mà không bị sở tri chướng ngăn ngại nên đã giúp chúng đệ tử nghe pháp thoại một cách chăm chú và mê say ... đã giúp cho việc học Phật Pháp online thành một thói quen tốt. Kính đảnh lễ Thày và kính chúc sức khỏe thường an, tịnh lạc. Kính , HH



Sấm ký truyền tiếp nối ba đời thật linh hiền (1)
Từ Ngài Định Không đến La Quý Thiền Sư (2)
Khôi phục long mạch bị trấn yểm đào hư


Kính đa tạ Giảng Sư :
Chuyện Cao Biền và dòng sông Tô Lịch ! (3)
Chuyện phong thủy , bát quái và quẻ dịch (4)
Y học Á Đông xưa liên hệ âm dương ngũ hành
Thời công nghệ văn minh mấy ai đã rõ rành
Chữ Đức trong bản thân mình là phong thủy tốt nhất !


Lại xem xét hành trạng Ngài La Quý nghiệm ra lẽ thật
Cứ tiệm tu đi ....rồi sẽ đốn ngộ một ngày(5)
Nhân duyên đúng thời, Minh Sư chánh pháp khai
Gia tài Pháp Bảo gói trọn trong Tuệ Bát Nhã (6)


Bảy ba năm sau, triều đại Lý phò trì Phật Pháp lan tỏa ! ( 7)


Nam Mô Đinh La Quý Trưởng Lão Thiền Sư tác đại chứng minh


Huệ Hương
Melbourne 1/7/2021





(1)

Ngài Định Không đã để lại sấm ký về đời nhà Lý như sau

Pháp khí hiện ra mười cái chung đồng

Họ Lý làm vua ba phẩm thành công”

(Pháp khí xuất hiện thập khẩu đồng chung

Lý hưng vương tam phẩm thành công

Qua đến Sư phụ Thông Thiện và Đời Thiền Sư La Quý cũng có sấm truyền ứng hiện 73 năm sau khi thiền Sư viên tịch

Sau khi trồng cây gạo, sư Đinh La Quý làm bài kệ như sau:

Đại sơn long đầu khỉ

Cù vĩ ẩn châu minh

Thập bát tử định thiền

Miên thọ hiện long hình

Thổ kê thử nguyệt nội

Định kiên nhật xuất thanh

Dịch:

Đại sơn đầu rồng ngửng

Đuôi cù ẩn Châu minh

Thập bát tử định thành

Bông gạo hiện long hình

Thỏ gà trong tháng chuột

Nhất định thấy trời lên

Bài thơ này được xem nhằm mục đích tuyên truyền cho sự ra đời của nhà Lý vào tháng 10 năm Dậu, và sau đó nhà Lý ra đời vào tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009) - – ứng với sự tiên đoán của bài thơ.

Kính xin lưu ý về cách phối hợp 3 chữ Thập Bát Tử để thành họ Lý

Câu 4: chữ Thập (十) + chữ Bát (八) + chữ Tử (子) ghép lại thành chữ Lý (李). Câu 4 tiên đoán nhà Lý sẽ trị vì

(2) Sư họ Đinh người An Chân, đi du phương từ thuở nhỏ, tham yết khắp các bậc thầy nổi danh trong nhà Thiền. Trải nhiều năm như thế, mà pháp duyên chưa hợp, Sư sắp thối chí. Sau gặp Thiền sư Thông Thiện ở chùa Thiền Chúng nói một câu, tâm Sư liền khai ngộ. Từ đây, Sư ở lại hầu hạ thầy.

Thiền sư Thông Thiện sắp tịch gọi Sư đến bảo:

- Xưa thầy ta là Định Không từng dặn dò rằng: “Con khéo giữ gìn pháp của ta, gặp người họ Đinh sẽ truyền.” Ngươi gắng đảm đương lấy. Nay ta đi vậy.

(3) Theo sách Thiền Uyển tập anh, viên quan Tiết độ sứ đô hộ Việt Nam vào giữa thế kỷ 9 là Cao Biền xây thành Đại La bên sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt con sông Điềm[2] và những ao Phù Chẩn[3] đến 19 chỗ để trấn yểm nó. Mục đích của Cao Biền là làm đứt long mạch, cản trở sự ra đời của đế vương tại Việt Nam.

Cao Biền đi khắp nơi xem xét địa thế và phát hiện có rất nhiều linh khí ở nước Nam. Khi cho xây thành Đại La bên sông Tô Lịch, biết đất ở làng Cổ Pháp có khí tượng Đế vương, Cao Biền đã cắt đứt long mạch nơi đây bằng cách đào đứt con sông Điềm (các nghiên cứu cho rằng có thể là sống Đuống ngày nay) và 19 điểm ở ao Phù Chẩn (thuộc làng Phù Chẩn, thị trấn Từ Sơn, Bắc Ninh).

Tuy nhiên, việc Cao Biền phá hoại phong thủy đã bị thiền sư nước Nam tiên đoán từ trước…Đó là Thiền Sư Định Không

Ngay từ trước khi Cao Biền nhận lệnh trấn yểm nước Nam thì năm 808, thiền sư Định Không đã cho gọi người kế tục mình là Thông Thiện đến dặn dò trước khi viên tịch rằng: “Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta đã mãn”. Vậy là vị thiền sư đã tiên đoán được việc Cao Biền phá phong thủy, và việc người kế tục đệ tử của ông sẽ mang họĐinh

Sau này, sư Thông Thiện gặp một đệ tử rất thông minh là Đinh La Quý. Đoán biết đây là người kế tục mình nên ông đã truyền thụ hết các sở học cho đệ tử.

Theo dân gian thì ngài La Quý tùy phương diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên đoán được tương lai.

Chính ngài La Quý là người đã nối lại long mạch cho làng Cổ Pháp. Năm 936 (thời Dương Đình Nghệ), biết mình sắp mất, ngài La Quý gọi đệ tử chân truyền của mình là Thiền Ông đến nói:

“Ngày trước, Cao Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng đất Cổ Pháp của ta có khí tượng Đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông Điềm và khuấy động 19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn.

Nay ta đã chủ trì lắp lại những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa. Trước khi ta mất, ta có trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo.

Cây bông gạo này không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ phò dựng chính pháp của chư Phật”.

Ngoài ra Giảng Sư đã kể lại câu chuyện nạo vét dòng sông Tô Lịch vào năm 2001 tại Hà Nội như sau

Tên Tô Lịch từ tên một vị thần sống vào thời nhà Tấn đô hộ xứ Giao Chỉ. Đến thời nhà Đường, nơi đây là vị trí xây dựng thành Đại La.

Vào tháng 9 năm 2001, một đội thi công xây dựng do ông Nguyễn Hùng Cường làm đội trưởng, thi công kè bờ, nạo vét một đoạn sông Tô Lịch thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội - nơi đây xưa thuộc thôn Đoài Môn (nghĩa là "cửa phía Tây", một số người cho là Cửa Tây thành Đại La). Trong quá trình thi công, đội đã tìm thấy một số di vật cổ, trong đó có tám bộ hài cốt, nhiều xương răng động vật (voi, ngựa, trâu), hơn mười cái liễn lớn nhỏ bằng sành, nhiều đồ gốm, đồ sắt, đồ dùng như bát đĩa, dao, liềm, kim khâu, một số mảnh gốm men ngọc đã bị vỡ được cho là thuộc đời nhà Trần và Lê Sơ, tiền cổ hình tròn có lỗ vuông. Tại khu vực này còn phát hiện thấy nhiều vật liệu xây dựng cổ xưa như ngói cổ, đá, nhiều gạch cổ, đặc biệt là gạch vồthời nhà Lê. Quanh chỗ phát hiện hài cốt là các cọc gỗ lim đóng theo những hàng ngắn, bố trí lạ.

Công trình được dừng lại một thời gian để các nhà khoa học nghiên cứu. Giám đốc Bảo tàng Hà Nội và các nhà khoa học được mời tới, trong đó có giáo sư Trần Quốc Vượng. Giáo sư Vượng cho rằng đây là trận đồ bát quái yểm trấn giữ cửa thành Đại La từ thế kỷ thứ 9. Trong quá trình thi công, ông đã thuật lại những hiện tượng:

Các công nhân xây dựng gặp các hiện tượng như động kinh, mơ gặp ma.
Thân nhân của họ gặp nhiều chuyện bất hạnh liên tiếp.
Các công việc thi công không tiến triển được như đê đắp lên thì đê vỡ, kè thép không vỡ nhưng nước xói từ dưới lên, đặt đá xuống thì đá chìm, nhiều mũi khoan bị gãy nhanh khi khoan thăm dò ở giữa sông.
Một số người khác có liên quan đến các di chỉ và những người được mời tới làm lễ giải bị ốm nặng hoặc chết trong vòng một vài tháng. Theo lời ông Nguyễn Hùng Cường,H T Thích Viên Thành (tu theo Mật Tông nơi chùa Hương ) khảo sát xong và có nói sức ông không giải được nhưng vận ông đã hết và trách nhiệm vẫn phải làm, sau đó ba tháng HT Thích Viên Thành cũng qua đời.
Cũng theo lời ông Nguyễn Hùng Cường, giáo sư Trần Quốc Vượng có đề cập đến lực lượng âm binh tại đây và dặn các công nhân phải cẩn thận kẻo ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng...
Đến năm 2016 trở lại đội thi công mời thỉnh quý HT khắp nơi về là giới đàn để tháo gỡ các bùa ếm và sông đã được nạo vét . Ngày nay các bờ kè đã được dựng xây
Lại nói về các vị trí xảy ra sự kiện "thánh vật"

Các nhà khoa học, nghiên cứu lịch sử và các nhà nghiên cứu phong thủy Việt Nam khác cho rằng đây có thể là nơi trấn yểm của Cao Biền. Theo truyền thuyết, mục đích Cao Biền trấn yểm chặn long mạch là để làm cho đất cứng hơn cho thành xây lên không bị đổ, và cũng để ngăn chặn người tài sinh ra tại đất Việt.

Về hiện tượng việc thi công gặp khó khăn, theo nhà sử học Dương Trung Quốc vì là nơi hợp thuỷ của ba dòng sông nên cũng có thể có yếu tố phong thuỷ. Ông không loại trừ khả năng đây là di tích của một sự yểm nào đó của thời kỳ tiền Thăng Long - thời Cao Biền làm Tiết độ sứ. ]

Ghi chú: Cao Biền là người U châu (Bắc Kinh ngày nay), ông là cháu nội của danh tướng Cao Sùng Văn. Năm Hàm Thông thứ 5 (863), quân Nam Chiếu (lúc này có quốc hiệu "Đại Lễ") chiếm được An Nam (An Nam đô hộ phủ (Việt Nam) thời Bắc thuộc lần 3, từ năm-679 đến năm-866, với bộ máy cai trị của nhà Đường trên vùng tương ứng với một phần tây nam Quảng Tây, Trung Quốc, thuoc Miền Bắc và miền Trung Việt Nam ngày nay, có địa bàn từ Hà Tĩnh trở ra Bắc).

(4)

Bát quái có nghĩa là 8 quẻ, là hình ảnh đại diện cho những yếu tố cơ bản của vũ trụ trong trời đất, được xem 8 biểu tượng tượng trưng cho 8 ký hiệu liên quan mật thiết với nhau. Trong đó mỗi ký hiệu hay mỗi quẻ sẽ gồm các hào âm và hào dương đại diện cho âm và dương. Bát quái có quan hệ mật thiết với thái cực và ngũ hành. Vì vậy, bát quái được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như đại lý, thiên văn học, phong thủy, y học cổ truyền, gia đình, giải phẫu…

Bát quái có liên quan mật thiết đến thuyết ngũ hành, tương sinh, tương khắc và được các nhà phong thủy, các nhà y học cổ truyền Trung Quốc sử dụng rộng rãi bao gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa Thổ. Quái ly (lửa) và quái khảm (nước) sẽ tượng trưng cho hành thủy và hành hỏa. Quái khôn (địa) và quái cấn (núi) sẽ tượng trưng cho hành thổ. Quái tốn (gió) và quái chấn (sấm) tượng trưng cho hành Mộc. Cuối cùng là quái càn (trời) và quái đoàn (đầm, hồ) tượng trưng cho hành Kim.

Mộc sinh Hỏa: Cây khi khô sẽ sinh ra lửa, Hỏa sẽ lấy Mộc để làm nguyên liệu đốt.
Hỏa sinh Thổ: Lửa sẽ đốt cháy mọi thứ thành tro bụi và tro bụi sẽ trở thành đất
Thổ sinh Kim: Từ trong đất, kim loại mới được hình thành
Kim sinh Thủy: Kim loại nếu được nung chảy ở nhiệt độ cao sẽ tạo ra dung dịch ở thể lỏng (Kim).
Thủy sinh Mộc: Nước giúp làm cây phát triển, tươi tốt
(5)

Sư họ Đinh tên thế tục là An , pháp hiệu La Quý người An Chân, đi du phương từ thuở nhỏ, tham yết khắp các bậc thầy nổi danh trong nhà Thiền. Trải nhiều năm như thế, mà pháp duyên chưa hợp, Sư sắp thối chí. Sau gặp Thiền sư Thông Thiện ở chùa Thiền Chúng nói một câu, tâm Sư liền khai ngộ. Từ đây, Sư ở lại hầu hạ thầy.

(6) theo HT Nhất Hạnh

Gia tài pháp bảo truyền từ kinh Tượng Đầu Tinh Xá Kinh chắc chắn đã được phổ biến và sử dụng ở Giao Châu thời ấy: Kinh này có thể xem như là kinh căn bản của Thiền học sử dụng trong thiền viện Pháp Vân và trong các tòng lâm thuộc thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi như tòng lâm Thiền Chúng, nơi đó hơn 300 tăng sĩ học tập thiền quán dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Pháp Hiền.

Kinh Tượng Đầu Tinh Xá có đặc tính phá chấp của văn hệ Bát nhã và đặc biệt chú trọng thiền quán. Lục tổ Huệ Năng là người đầu tiên ở Trung Hoa dùng một kinh thuộc văn hệ Bát nhã (kinh Kim Cương) trong sự giảng dạy Thiền học – lúc đó, kinh Lăng Già là kinh được trọng thị bậc nhất trong giới thiền gia – Sự sử dụng kinh Tượng Đầu Tinh Xá ở Giao Châu cho ta thấy sự liên hệ giữa văn hệ Bát nhã và Thiền học ở Giao Châu đã có sớm hơn ở Trung Hoa tới một thế kỷ. Kinh Lăng Già là một cuốn kinh được Bồ Đề Đạt Ma trao cho Huệ Khả và được truyền lại cho các tổ kế tiếp. Kinh Tượng Đầu Tinh Xá nói về không, thuộc hệ thống Bát nhã, đã được dùng để bổ túc cho kinh Lăng Già. Vua Lý Thái Tông đã tỏ ra rất tinh tường trong bài thơ mà vua làm để truy tán Tỳ Ni Đa Lưu Chi.

(7)

Trước khi viên tịch, ông còn dặn lại sư Thiền Ông:

Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép, yểm dấu trong đó, chớ cho người thấy.

Dặn dò xong, Đinh La Quý viên tịch, thọ 85 tuổi.

Cây gạo ( mộc miên ) ông trồng sau này trở thành một sinh vật đặc biệt gắn liền với lịch sử Việt Nam. Bảy mươi ba năm sau, năm 1009, cây gạo bị sét đánh nhưng không chết. tại chỗ sét đánh trên thân cây có bài thơ sấm được giải mã mang nội dung tiên đoán đúng các sự kiện trong lịch sử Việt Nam: việc nhà Lý nối nghiệp nhà Tiền Lê cũng như tên các triều đại kế tục tiếp theo như nhà Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, chúa Trịnh. Cây gạo bị bão đánh đổ năm 1966 sau 1030 năm tồn tại

Được biết cây gạo là loài cây ở vùng nhiệt đới với thân cây cao và thẳng với lá rụng vào mùa đông. Các hoa đỏ với 5 cánh hoa mọc vào mùa xuân(tháng 3 hoặc tháng 4) trước khi cây ra lá non. Quả nhỏ chứa các sợi tương tự như sợi bông. Thân cây có các gai để ngăn cản sự tấn công của động vật. Mặc dù bề ngoài thì thân cây có vẻ tốt cho mục đích khai thác gỗ, nhưng gỗ của nó quá mềm để có thể sử dụng vào những việc như vậy.

Loài cây này có lẽ có nguồn gốc ở Ấn Độ nhưng hiện nay nó được trồng rộng rãi ở các bang của Malaysia, Indonesia, miền nam Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Việt Nam. Theo ghi chép trong lịch sử Trung Quốc thì vua Nam Việt là Triệu Đà (趙佗) đã tặng một cây cho vua của nhà Hán vào thế kỷ 2 TCN.

Các sợi bông của nó cũng được dùng nhồi vào gối hay nệm cũng như làm lớp cách nhiệt lót áo lạnh. Tuy nhiên vì bông cây gạo không dài sợi nên không thể kéo sợi và dệt như bông vải được.

Hoa gạo được dùng trong một số loại trà thuốc Trung Hoa.

Tại Quảng Đông (Trung Quốc), cây này gọi là 木綿 - mộc miên (cây bông thân gỗ), hay 紅綿 - hồng miên (bông đỏ). Nó còn được gọi là 英雄樹 - anh hùng thụ (cây anh hùng) do có thân cao và thẳng.

Hoa của loài cây này là hoa biểu trưng cho Quảng Châu, Cao Hùng (Đài Loan), Nam Định (Việt Nam).

Trong tiếng Việt có thành ngữ liên quan đến cây gạo: "Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề" nhắc đến phép siêu nhiên gắn bó với ba loại cây này trong tâm thức văn hóa Việt.





youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2023(Xem: 3564)
Chưa thuận duyên … mỗi tháng đến chùa Thầy thọ bát! Nhủ lòng…. tại gia tự thọ giới theo luật trang nghiêm, Được trang nhà từ bi Online khoá lễ… xiết bao nỗi ân triêm, Kính đa tạ Thượng tọa Trụ trì, kính dâng lời quý ngưỡng !
04/04/2023(Xem: 1963)
Kính thưa quý Đồng Hương Phật tử, Xin trân trọng thông báo chương trình Thuyêt Pháp tại Melbourne (Úc châu) từ 3/4/23 - 21/4/23 của Hòa Thượng Pháp Tông, Trụ trì Chùa Huyền Không (Thừa Thiên Huế) như sau: 1/ Thứ sáu 7/4/23 lúc 9.30 am - 11 am Pháp thoại và CD Trai Tăng tại tư gia Phật tử Minh Tâm- Cranbourne Vic. 2/ Chủ nhật 9/4/23 lúc 2pm tại Chùa Bồ Đề số 30 Charles Street, St. Albans Vic 3021. (Ni Sư Nhật Liên: 0422313922). 3/ Chủ nhật 16/4/23 lúc 10.30am tại Chùa Từ Quang số 2 Lyall Street, St Albans Vic 3021. (Đại Đức Chơn Phong: 0431593149). 4/ Chủ nhật 16/4/23 lúc 3pm-5pm tại Tu Viện Quảng Đức số 85_105 Lynch Rd. Fawkner Vic 3060. (Thượng Tọa Nguyên Tạng: 0481169631). Kính mời quý vị sắp xếp thời gian tham dự các buổi Pháp thoại, và nếu có yêu cầu gì xin liên lạc Phật tử Minh Tâm số 0466 357 553. Nay kính, Phật tử Diệu Tuyền (Perth, Australia) 🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸
26/03/2023(Xem: 2861)
Thượng Tọa Giảng Sư đã tóm tắt bài giảng như sau: Bát Nhã Ba La Mật Đa là linh đan trường sinh bất tử cho người đệ tử Phật. Dù cho tu theo pháp môn nào, Thiền, Tịnh, Mật, đặc biệt các phái Thiền Vipassana, Thiền khán thoại đầu....tất cả đều phải lấy Bát Nhã Tâm Kinh làm tông chỉ và phải trì tụng mỗi ngày. Nhờ Bát Nhã đưa lối dẫn đường mà hành giả chiếu kiến "ngũ uẩn giai không", không chấp đắm thân-tâm này là ta, là của ta, nên tận trừ gốc rễ của phiền não khổ đau; nhờ sống với trí tuệ rỗng lặng hiện tiền nên hành giả luôn ở trong trạng thái tâm tự tại thong dong bên kia bờ giải thoát an vui, vì "trong cái chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe" không có thêm bất kỳ một cái thấy, cái nghe nào của ngã và ngã sở của bản thân hành giả đan xen vào để chi phối cái thấy đó, cái nghe đó, nên hành giả không tạo thêm nghiệp mới, do không còn nghiệp mới, nên hành giả không còn nghiệp để dẫn dắt đi trong luân hồi sanh tử khổ đau, ngay đó hành giả đã giải thoát tự tại an vui ngay trong
21/03/2023(Xem: 3932)
"Tử sanh là ải phải đi qua Đi mãi nhưng ai đã đến nhà? Qua lại 3 đường cùng sáu cõi Muốn ra cần phải niệm A Di Đà" Muốn ra phải niệm A Di Đà. Đây là câu khai thị bắt đầu trong nghi cúng Linh, Khi đọc tới câu này chúng ta nhớ tới Hòa Thượng Đệ Tứ Tăng Thống, Đức Trưởng Lão Thích Huyền Quang, câu đó do Ngài soạn. Hòa Thượng soạn tất cả nghi cúng Hương linh, cúng chư Giác linh. Quý vị vào trang nhà Quảng Đức gõ "Pháp Sự Khoa Nghi Việt Ngữ".
23/12/2022(Xem: 13426)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/12/2022(Xem: 4493)
Kính bạch Giảng Sư, Đây là buổi pháp thoại cuối trong năm 2022 của Tổng Vụ Hoằng Pháp lại là lần đầu tiên con lại được nghe những lời dạy tha thiết và chân tình nhất của một tăng sĩ thuộc trường phái Đại Thừa Phát Triển nhưng căn bản nồng cốt giáo lý căn bản xuất phát từ Phật giáo nguyên thủy. Mặc dù Giảng Sư đã giữ chức vụ Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Nghi lễ và Văn Hoá nhiều nhiệm kỳ qua có lẽ Ngài vẫn biết một cách sâu sắc rằng bản thân nghi lễ Phật giáo Việt Nam vốn là một phương pháp hành trì tu tập, đồng thời là một phương tiện hoằng dương chánh pháp hữu hiệu.
17/11/2022(Xem: 4530)
Con đã gặp Sư Cô Nguyên Khai tại Tu Viện Quảng Đức trong ngày bế mạc Lễ Hiệp kỵ Lịch Đại Tổ Sư chỉ thoáng qua trong vài phút chào hỏi mà đã lưu lại trong con một hình ảnh thật thân thương với giọng nói truyền cảm, ánh mắt nụ cười luôn nở trên môi, tự bao giờ …. Và từ khi được biết Ni Sư sẽ thuyết trình đề tài Bồ Tát Hạnh con đã chuẩn bị lắng nghe dù rằng phải nghỉ ngơi sớm khi vừa trở lại Sydney sáng nay và cũng như khi nhận thông báo về tang lễ nhập liệm được TT Tổng Thư ký kiêm Trụ trì Tu viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng phải chủ trì tại một địa điểm khác không phải tại vãng sanh đường của Chùa nhà, mà lại bắt đầu vào 18:00 pm cùng ngày có thể sẽ rất vắng …nên con đã tự hứa sẽ tham dự và viết bài tường thuật hôm nay.
10/11/2022(Xem: 4731)
Kính đa tạ Giảng sư và Tổng Vụ Hoằng Pháp Thời đại kỹ thuật số, bài giảng cập nhật dễ dàng Càng học nghe nhiều càng phải tri, hành Tự sách tấn mình tránh xa những dục vọng! Thực hành Phật Pháp là Học Cách Sống, Mười thiện nghiệp giới ...quà tặng chính mình Quả phúc an lạc nhờ có năng lực tâm linh Khi tà kiến, tham, sân thấu rõ qua nhân quả.
03/11/2022(Xem: 4124)
Kính bạch Giảng Sư và thính chúng, đây quả thật là một bài pháp thoại hữu ích cho bất cứ đệ tử Phật bất cứ tông phái nào và trình độ căn cơ nào vì mỗi một đề mục chính là thiền quán và toàn bộ 8 diều giác ngộ này đều là những điều mà chư Phật và các vị Bồ tát, các bậc đại nhân đã từng giác ngộ, theo đó tu tập mà thành tựu đạo quả và trở lại thế gian giáo hóa, tế độ chúng sinh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567