Nam mô A Di Đà Phật
Kính bạch Sư Phụ,
Bạch Sư Phụ, hôm nay Sư Phụ giảng bài kệ thứ 32 trong Nghi Đảnh Lễ Tam Bảo của Hoà Thượng Thích Trí Thủ, Đức A Di Đà Như Lai.
Sư Phụ đã diễn xướng bài kệ nhự sau :
Khể thủ tây phương an lạc quốc
Tiếp dẫn chúng sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô A Di Đà Như Lai.
Cúi đầu kính lạy
Đấng Đại Đạo Sư,
Ở cõi Cực-lạc,
Tiếp dẫn chúng sinh.
Con nay nhất tâm
Phát nguyện vãng sinh.
Xin đức Từ Bi
Xót thương tiếp độ.
Một lòng kính lạy đức A Di Đà Như Lai.
Đức A Di Đà Như Lai là vị Phật thứ bảy trong bảy vị Phật được niệm mỗi ngày trong khoa nghi cúng thí thực cô hồn hầu ban rải tâm từ cho những vong linh được no đủ và tái sanh vào cõi giới an lành.
Sư Phụ giải thích về lai lịch nguồn gốc của Đức Phật A Di Đà qua 4 Kinh như sau:
1/Đức Phật A Di Đà và Phật Thích Ca từng là 2 anh em ruột trong kiếp xa xưa. Sư phụ nhắc sự kiện này được Đức Phật Thích Ca kể lại trong Phẩm Hóa Thành Dụ thứ 7 của Kinh Pháp Hoa, rằng: vào thuở quá khứ vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, có Đức Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng ở cõi Hảo Thành, kiếp tên Đại tướng, lúc chưa thành Phật, Ngài là thái tử con vua Chuyển luân thánh vương, có 16 người con trai, khi Ngài tu thành Phật, 16 vị thái tử này đều phát tâm theo cha xuất gia thành 16 sa di Bồ tát và chuyên thọ trì Kinh Pháp. Hiện nay 16 vị sa di Bồ tát này đã tu hành thành Phật, 2 vị làm Phật ở Phương Tây, vị thứ nhất tên là A Di Đà, vị thứ 2 tên là Độ Nhứt Thiết Thế Gian Khổ Não. Vị thứ 16, chính là Đức Phật Thích ca Mâu Ni.
2/ Kinh Vô Lượng Thọ, vào thời Đức Phật Thế Tự Tại Vương ra đời, có một vị quốc vương tên Kiều Thi Ca, vị vua này nghe đức Phật thuyết Pháp liền bỏ ngôi vua xuất gia làm vị tỳ kheo hiệu là Pháp Tạng. Một hôm Ngài đảnh lễ Phật, cầu Phật chứng minh và phát 48 lời nguyện, và do nguyện lực ấy sau này thành Phật hiệu là A Di Đà.
3/ Theo kinh Bi Hoa, vào đời vua Chuyển Luân Thánh Vương tên là Vô Tránh Niệm có vị đại thần tên là Bảo Hải, tức là thân phụ của Phật Bảo Tạng. Một hôm vua Vô Tránh Niệm nghe Phật thuyết Pháp liền phát tâm cúng dường đầy đủ các lễ vật cho đức Phật và Đại chúng trong ba tháng. Vị Đại thần Bảo Hải khuyên vua nên phát tâm Bồ đề cầu đạo vô thượng. Vua liền phát 48 lời đại nguyện, nếu sau này thành Phật sẽ làm giáo chủ cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh để giáo hóa chúng sanh. Vua Vô Tránh Niệm vừa phát nguyện xong, Đức Phật Bảo Tạng liền thọ ký cho vua sau này thành Phật hiệu là A Di Đà ở cõi Tây Phương Cực Lạc và Đại Thần Bảo-Hải sau này cũng tu hành thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
4/ Trong kinh A Di Đà, Sư phụ nhắc lại có 3 câu cần phải học thuộc lòng:
Câu 1: "Xá lợi Phất, A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai ư kim thập kiếp. Hựu Xá lợi phất, bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử, giai A La Hán, phi thị toán số chi sở năng tri, chư Bồ Tát chúng diệc phục như thị."
Nghĩa là: "Xá- Lợi- Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn lại đến nay, đã được mười kiếp. Xá- Lợi- Phất! Lại Đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải ính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ Tát chúng cũng đông như thế".
Câu 2: " Tùng thị Tây phương, quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc, kỳ độ hữu Phật hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết pháp.”
Nghĩa là: " Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có Đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp". Sư phụ giải thích về sự: từ đây qua phương Tây quá 10 muôn ức cõi có 1 cõi Cực Lạc; nhưng về Lý: hành giả muốn đến cõi Cực Lạc phải vượt qua 10 tập nhân gây ra phiền não khổ đau, đó là phải đoạn tận: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ
Câu 3: "Xá Lợi Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc"
Nghĩa là: " Này Xá Lợi Phật, không thể dùng chút ít thiện căn, phước đức, nhơn duyên mà được sanh về cõi Tây Phương", có nghĩa là hành giả có đủ thiện căn, phước đức và nhơn duyên mới đủ điều kiện vãng sanh về Cực Lạc.
Sư Phụ có nhấn mạnh lời nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đà rất quan trọng : "Thập niệm tất sanh, lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh chí tâm tín mộ muốn sanh về cõi nước tôi nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, (trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp), thời tôi đây không trụ ở ngôi Chánh giác".
Sư Phụ giải thích nhiều đệ tử hiểu sai lời nguyện này, vì nghe thấy dễ quá, chỉ cần 10 niệm là đủ không cần làm gì thêm. Kỳ thực nói dễ nhưng làm không dễ chút nào. Lúc lâm chung, thân đau đớn, tâm tán loạn, miệng cứng....thì niệm 1 câu cũng không niệm nổi huống hồ là 10 câu. Do vậy ai muốn vãng sanh, thì cố gắng niệm ngay bây giờ.
Ngày vía Đức A Di Đà là 17 tháng 11 âm lịch hằng năm là lấy theo ngày sanh của Ngài Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ. Kỳ thực Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ còn gọi là Thiền Sư Huệ Nhật Trí Giác ( 904-975) đệ tử đắc pháp của Thiền Sư Đức Thiều và là Tổ thứ 3 của Tông Pháp Nhãn. Ngài được xem như là hoá thân của Đức Phật A Di Đà, ngài chủ trương Thiền-Tịnh song tu qua 4 bài kệ này:
1/ Hữu thiền vô Tịnh độ,
Thập nhân cửu tha lộ,
Ấm cảnh hốt hiện tiền,
Miết nhĩ tuỳ tha đọa.
2/ Vô thiền hữu Tịnh độ
Vạn tu vạn nhân thỏa
Đản đắc kiến Di-đà,
Hà sầu bất khai ngộ?
3/ Hữu thiền hữu Tịnh độ
Do như đới giác hổ
Hiện thế vi nhơn sư,
Tương lai tác Phật, Tổ .
4/ Vô thiền vô Tịnh độ,
Thiết sàng Tịnh đồng trụ,
Vạn kiếp dữ thiên sinh,
Một cá nhân y hỗ.
Dịch nghĩa:
1. Có Thiền không Tịnh độ
Mười người, chín lạc lộ.
Ấm cảnh khi hiện ra
Chớp mắt đi theo nó.
2. Không Thiền có Tịnh độ
Muôn tu muôn thoát khổ.
Vãng sanh thấy Di Đà
Lo gì chẳng khai ngộ.
3. Có Thiền có Tịnh độ
Như thêm sừng mãnh hổ.
Hiện đời làm thầy người
Về sau thành Phật, Tổ.
4. Không Thiền không Tịnh độ
Giường sắt, cột đồng lửa!
Muôn kiếp lại ngàn đời
Chẳng có nơi nương tựa.
Sư Phụ có kể về Hoà Thượng Quảng Khâm, Trụ Trì Chùa Thừa Thiên ở Đài Loan, ngài cũng là thiền sư nhưng lại chủ trương thiền tịnh song tu như Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ. HT Quảng Khâm sinh năm 1892 và viên tịnh năm 1986, được xem là một vị tu chứng trong đời hiện đại.
Ngài tu khổ hạnh, chỉ ăn trái cây và ngủ ngồi trong 60 năm. Hoà Thượng Tuyên Hoá ỡ Mỹ cũng tu hạnh ngủ ngồi.
HT Quảng Khâm có 15 điều dặn về tu cái miệng :
Không có tâm thị phi
Không nói lời thị phi
Không nghe lời thị phi.
Khi Ngài ra đi, có đóa sen hồng thoát ra từ Ngài.
Bạch Sư Phụ, con có chụp tấm hình đóa sen nầy, và con được xá lợi, con kính xin có chút mơ tưởng, hình đóa sen của con chụp có một nhuỵ chiếu sáng ngay giửa đóa sen ( có thể là flash đèn).
Ngài có để lại nhiều xá lợi.
Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ giảng rõ về lợi ích của pháp môn niệm Phật, nhất là lời của Ngài Đại Tăng Grí Giác đời nhà Tống, người có thiền có tịnh như hổ thêm sừng, giúp cho hành giả tu Tịnh vững an niệm Phật cho lộ trình về cõi Tịnh.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).
Kính dâng Thầy bài thơ trình pháp về Đức A Di Đà Như Lai trong thời kinh công phu chiều.
Đức A Di Đà Như Lai,