Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II. Ðức Phật

23/02/201104:02(Xem: 4427)
II. Ðức Phật

Phật tử
Những Câu Hỏi Thông Thường Về Đạo Phật
Hòa thượng Thích Thiện Châu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Sài Gòn, 1997

[II.] Đức Phật

[6.] Đức Phật là ai?
[7.] Tại sao Thái tử xuất gia tu hành?
[8.] Đạo sĩ dòng Thích Ca tìm thầy học đạo và tu đạo như thế nào?
[9.] Đắc đạo rồi đức Phật có giáo hóa chúng sanh không?
[10.] Phải chăng đức Phật là một vị trời?
[11.] Làm sao biết được đức Phật là bậc giác ngộ giải thoát hoàn toàn?

II. Đức Phật

6. Đức Phật là ai?

- Đức Phật (Buddha) là danh từ chung chỉ các bậc giác ngộ hoàn toàn. Đức Phật mà chúng ta kính thờ vốn là thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha), con vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma Gia (Mâyâ). Quê hương của Ngài là tiểu bang thuộc dòng họ Thích Ca (Sâkya), về phía bắc Ấn Độ mà kinh đô là Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu), nằm trên bờ sông Rohini dưới chân Hy mã lạp sơn, là vùng Terai của nước Nepal ngày nay.

Vua và hoàng hậu đều là những người đức độ, song thường buồn lo vì không có con nối nghiệp. Nhân một ngày lễ lớn, hoàng hậu Ma Gia trai giới trọn ngày và cùng vua phân phát tiền vật cho dân nghèo. Đêm ấy, trong khi an giấc, hoàng hậu mộng thấy con voi trắng sáu ngà, vòi ngậm cành sen trắng từ cao đi xuống, tiến đến gần rồi chui vào bên mình phía tay phải của hoàng hậu. Các nhà đoán mộng danh tiếng đoán rằng hoàng hậu sẽ sanh thái tử xuất chúng. Hoàng gia rất đỗi vui mừng và hoàng hậu thụ thai từ đó.

Thời tiết đến, hoàng hậu theo tục lệ xin vua trở về nhà cha mẹ để sinh. Khi đi ngang qua vườn Lâm tỳ ni (Lumbini), hoàng hậu dừng chân ngắm xem hoa lá, và trong lúc đưa tay vịn một cành hoa thì hạ sanh thái tử. Hôm ấy là ngày trăng tròn tháng Vesakha (tháng tư ta) cách đây hơn 2500 năm.

Tin mừng thái tử ra đời vang khắp bốn phương. Đạo sĩ A-tư-đà (Asita) tìm đến hoàng cung và vào thăm thái tử. Nhìn thấy những tướng tốt nơi thái tử, đạo sĩ vô cùng mừng rỡ, nhưng sau đó lại buồn khóc. Vua rất lo ngại và gạn hỏi nguyên do, thì đạo sĩ thưa:

"Tâu bệ hạ, thái tử là bậc xuất chúng: nếu ở đời sẽ là minh vương (cakkavattin), nếu tu hành sẽ thành Phật. Tôi mừng là vì một đấng giác ngộ đã ra đời. Tôi buồn là vì đã già, tôi sẽ không còn sống cho tới ngày được nghe lời giáo hóa của Ngài".

Hoàng hậu Ma Gia từ trần sau khi thái tử sanh ra được bảy ngày. Em hoàng hậu, bà Ma-Ha-Ba-Xà-Bà-Đề nuôi dưỡng thái tử. Thái tử rất thông minh tuấn tú: văn chương, võ nghệ đều tinh thông hơn người. Nhưng thái tử thường tỏ vẻ không vui với cuộc sống chung quanh.

[^]

7. Tại sao Thái tử xuất gia tu hành?

Ngay lúc bẩy tuổi, một hôm thái tử được đưa ra ngoài đồng để dự lễ khai mùa đầu xuân. Trời nắng, thái tử ngồi dưới gốc cây để xem lễ. Ngoài ruộng, vua cha tay cầm tay cày nạm ngọc, đi sau đôi bò mập mạnh. Lưỡi cày làm vung lên những tảng đất mun. Những con trùng đứt khúc, ướm máu bày ra, đàn chim nhẩy bay theo luống đất vừa cày, tranh nhau mổ ăn những con trùng đang quằn quại và tìm nơi ẩn trốn. Qua cảnh tượng ấy, thái tử thấy rõ sự thật cay đắng về cuộc đời và suy ngẫm sâu sắc về nó.

Dự lễ về, như không còn thiết với cảnh sống hoa lệ của hoàng cung, thái tử trở nên trầm tư hơn trước. Vua cha nhớ lại lời đoán của đạo sĩ A-Tư-Đà (Asita), sợ thái tử sẽ xuất gia tu hành nên tìm mọi cách làm cho thái tử khuây khỏa và vui say với cảnh sống vua chúa. Vua xây cho thái tử thêm ba cung điện tráng lệ, thích hợp với ba mùa: hè, mưa và đông và cưới công chúa Da-Du-Đà-La (Yasodharâ) cho thái tử lúc 16 tuổi.

Cung vàng, điện ngọc và tình yêu của vợ hiền vẫn không làm vơi những băn khoăn và thắc mắc về cuộc đời nơi thái tử. Để hiểu rõ cuộc sống của con người, thái tử xin phép vua cha dạo chơi ngoài thành. Lần thứ nhất, thái tử rất ngạc nhiên khi thấy một người già gầy còm, hổn hển, đi từng bước với cây gậy một cách khó nhọc. Lần thứ hai, thái tử thấy người bệnh nằm rên la bên vệ đường. Lần thứ ba, người chết đang được mang ra bãi tha ma để hỏa táng. Ba cảnh tượng ấy làm ngài buồn hơn và suy nghĩ nhiều. Rất nhiều lần thái tử hỏi các giáo sư về nguyên nhân khổ đau và phương pháp diệt đau khổ. Song những câu trả lời của họ đều đầy thần quyền và thiếu lý lẽ về cuộc đời không thỏa mãn thái tử. Chính trong lần dạo chơi thứ tư, khi thái tử gặp một vị tu hành với phong độ giải thoát, tự tại, thái tử có ý định rời bỏ cuộc sống vua chúa để tìm chân lý.

Trong những ngày miên man với ý nghĩ ra đi, thì thái tử được tin công chúa Da-Du-Đà-La sinh con trai: La Hầu La (Râhula). Tin này làm vững thêm ý chí của thái tử vì từ nay đã có người nối nghiệp thì vua cha sẽ bớt buồn phiền. Lúc này thái tử đã 29 tuổi. Khuya hôm ấy, sau buổi yến tiệc linh đình, nhân lúc quân hầu, thị nữ ngủ say, thái tử cùng với người hầu cận Xa-Nặc (Chandaka) và ngựa Kiền trắc (Kanthaka) ra đi sau khi lặng lẽ từ biệt vợ con. Sáng ra, khi đến bờ sông Anôma, thái tử xuống ngựa, đổi áo gấm lấy áo thường, dùng gươm cắt tóc, rồi trao ngựa, đồ trang sức cho Xa-Nặc và bảo trở về thưa với vua cha và công chúa về mục đích ra đi của ngài.

[^]

8. Đạo sĩ dòng Thích Ca tìm thầy học đạo và tu đạo như thế nào?

Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha) sau khi trở thành đạo sĩ dòng Thích Ca (Sâkyamuni) đi lần đến thành Vương xá (Râjagaha) để tìm thầy học đạo. Sakyamuni gặp được các bậc thầy có tiếng như Arâda Kâlama và Udraka Ramaputra. Song các vị nầy không giải đáp được thắc mắc của Sâkyamuni. Sâkyamuni bèn đến Uruvela (gần Bồ đề Đạo tràng - Buddhagaya) và tu khổ hạnh ở nơi đó với hy vọng sẽ được giác ngộ. Sáu năm khổ hạnh chỉ làm cho thân thể tiều tụy, và tinh thần suy kém, Sâkyamuni quyết định từ bỏ lối tu ép xác thạnh hành nầy. Ngài nhận và dùng bát cơm sữa của nàng Sujâta dâng cúng. Năm người bạn đồng tu từ giã Sâkyamuni vì nghĩ rằng Sâkyamuni đã bị Ma vương cám dỗ. Trong khi đó Sâkyamuni đi đến sông Ni liên thuyền (Neranjarâ). Tắm rửa song, Ngài hỏi xin người cắt cỏ một bó cỏ đủ làm đệm ngồi và đến thiền định dưới gốc cây Tất bát la (Pipal, bây giờ gọi là Bodhi) với lời nguyền: "Dù cho xương khô, máu cạn, nếu không đạt Đạo ta thề không rời khỏi nơi nầy". Như nguyện, Sâkyamuni tập trung tất cả tâm lực đoạn trừ phiền não và phát triển trí tuệ. Vào đêm trăng tròn sáng tháng vesakha (tháng tư ta), đoán biết Sâkyamuni sắp đắc đạo, Ma vương (Mâra) sai thủ hạ đến quấy phá, dụ dỗ. Song tất cả mưu mô quỷ quyệt của Ma vương không thắng được Sâkyamuni. Sau khi hàng phục Ma vương, hiện thân của tham lam, giận dữ, si mê, Sâkyamuni tiếp tục vận động sức mạnh của tâm trí để thể nhập chân lý. Đầu đêm tâm trí bừng sáng, Sâkyamuni chứng được túc mạng minh - biết rõ dòng sanh mạng biến chuyển từ đời nầy qua kiếp khác của tất cả chúng sanh; nửa đêm, chứng được thiên nhãn minh - biết rõ quá trình sanh thành và hoại diệt của sự vật qua qui luật nhơn quả - đạo lý Duyên khởi; gần sáng, khi sao mai vừa mọc chứng được lậu tận minh - phiền não, nguyên nhân của sống chết lưu chuyển hết sạch (Dn, III, 28). Bấy giờ Sâkyamuni, lúc 35 tuổi, thành một bậc giác ngộ hoàn toàn (Buddha); đương thời gọi là Phật Gotama hay Phật Sâkyamuni.

[^]

9. Đắc đạo rồi đức Phật có giáo hóa chúng sanh không?

- Sau khi giác ngộ, với lòng từ bi và sự minh xác rằng con người có thể hướng thiện và hướng thượng, Phật đi bộ sang Sarnath (Bénarès) để giáo hóa cho năm người bạn cùng tu khổ hạnh ngày trước. Phật giảng cho họ biết rằng muốn thấy được chân lý, phải xa lìa hai cách sống thái quá: đắm say vật dục và hủy hoại thân thể, sáng suốt nhận rõ và thực hiện bốn chân lý cao thượng: sự khổ (dukkha), Nhân của khổ (samudaya), sự tiêu diệt của khổ (nirodha) và con đường đưa đến khổ diệt (magga). Buổi giảng thứ hai, Phật bác bỏ quan niệm sai lầm về linh hồn bất tử hay bản ngã thường còn làm chủ thể của sự sống và nói rõ con người là một tổng hợp liên tục của vật chất (rupa) và tinh thần (nâma); do đó, con người xấu ác si mê có thể trở thành tốt lành, giác ngộ.

Nhờ sự hướng dẫn sáng suốt của Phật mà tăng đoàn (sangha) càng ngày càng đông: Khi tăng đoàn đã đông, Phật khuyến khích mỗi người đi mỗi ngả để truyền bá đạo lý. Cùng với tăng đoàn, Phật cũng đi khắp lưu vực sông Hằng giáo hóa cho mọi người, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo. Những ai có khả năng xuất gia tu hành và dìu dắt kẻ khác đều được thâu nhận vào tăng đoàn. Những người muốn hướng thiện song còn bận bịu với gia đình và xã hội đều được chấp nhận làm Phật tử tại gia. Phật phá bỏ những tín ngưỡng thần linh vu vơ, chỉ rõ sai lầm trong cách nhận định chân lý, cải tạo những tập tục xấu hại như giết hại súc vật để cúng tế, cầu đảo. Phật cũng mạnh dạn chống đối chế độ giai cấp lạ kỳ bất công có nguồn gốc từ kinh điển Bàlamôn. Suốt 45 năm, từ làng này qua làng khác, Phật tận lực khai sáng cho con người thấy rõ sự thật của cuộc đời và làm cho con người nhận thấy khả năng quý báu nơi chính mình để họ dành lại quyền tạo hóa và hướng về nẻo giác ngộ cao đẹp.

Trên đường giáo hóa, vào đêm rằm tháng Vesak, Phật dừng nghỉ tại rừng Câu thi na (Kusinarâ), làng Kasia. Sau khi khuyên dạy đệ tử lần cuối cùng: "Vạn vật giả hợp đều hoại diệt, phải tinh tấn để thực hiện lý tưởng", Phật an nhiên viên tịch (parinirvâna) vào năm 80 tuổi.

[^]

10. Phải chăng đức Phật là một vị trời?

- Không! Đức Phật không phải là thần linh hay sứ giả của thần linh. Ngài là một người thức tỉnh (Bồ tát) đã tu hành trong nhiều kiếp và đến đời cuối cùng, với thân người, Ngài đạt đến quả vị giác ngộ hoàn toàn. Có thể nói Ngài là một người nhưng không phải là người thường mà là một "siêu nhân": người thông đạt chân lý (Như lai, Tathâgata), Phật là một bậc thầy:

"Các người hãy tự mình cố gắng,
Như Lai chỉ là người chỉ đường" (Pháp cú, 276)

Lời dạy của Phật là ánh sáng, là tình thương rất cần cho chúng ta, những kẻ đang sống trong bóng tối và hận thù. Không có gì quý báu hơn sự ra đời của Phật vì muôn nghìn năm mới có một lần.

[^]

11. Làm sao biết được đức Phật là bậc giác ngộ giải thoát hoàn toàn?

- Qua đạo phong cao đệp, lời dạy như thật của Phật được ghi chép trong kinh điển, chúng ta biết rõ ngài là bậc giác ngộ hoàn toàn. Hành động và lời nói của Phật đượm màu từ, bi, hỷ, xả. Đạo lý của Phật phản ảnh được sự thật nơi con người và vũ trụ. Nếu so sánh Phật với người thường và với các vị giáo chủ, triết gia khác, chúng ta thấy rõ sự giác ngộ hoàn toàn nơi Phật. Có thể xem Phật là đóa sen trắng:

"Như hoa sen tinh khiết, đáng nhìn,
Sinh từ bùn mà không dính bùn,
Ta không bị ô nhiễm vì cuộc đời,
Vì thế, này Bà la môn, ta là Phật". (An,II,39).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/04/2013(Xem: 4144)
Chuong Trinh Ánh Sáng Phật Pháp
09/04/2013(Xem: 6583)
Như đã sắp đặt trước cả năm, Khóa Tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ 12 của Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất Hải Ngoại tại UĐL-TTL được tổ chức tại Sydney Academy of Sport and Recreation
08/04/2013(Xem: 10461)
"Hỏi hay đáp đúng" (nguyên tác Anh ngữ: '' Good Question, Good Answer) là một trong nhiều tác phẩm phổ biến của Đại đức Shravasti Dhammika, một Tăng sĩ người Úc đã từng diễn giảng giáo lý Phật Đà trên đài truyền hình và đại học Úc
08/04/2013(Xem: 2830)
Phật tử là người tu học theo đạo Phật hay người muốn giác ngộ như Phật. Nói cách khác, người Phật tử là người đi tìm sự thật nơi con người và vũ trụ theo kinh nghiệm ...
05/04/2013(Xem: 3331)
Phật tử nghiên cứu và học hỏi giáo lý của đức Phật là cốt tìm một phương pháp giải thoát và an lạc cho chính mình. Cũng như ngày xưa, khi đức Phật còn tại thế, các vị cư sĩ cũng đi đến với Ngài là để cầu sự chỉ giáo của Ngài, hầu mong đem lại cho họ một cuộc sống hạnh phúc an vui.
03/01/2013(Xem: 3243)
Ngài Ajahn Chah ( 1918-1992) là một trong những vị thiền sư danh tiếng và được kính trọng bậc nhất ở Thái Lan. Ngài thọ giới Tỷ-kheo vào tuổi 20, theo truyền thống khổ hạnh Sơn Lâm (Forest Sangha), thuộc hệ phái Phật giáo Nguyên Thủy. Ngài tu tập dưới sự hướng dẫn của một số thiền sư danh tiếng đương thời, trong đó Ngài Ajahn Mun là vị thầy có ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với ngài. Sau nhiều năm hành đạo trong các vùng rừng núi như một vị du tăng, cuối cùng Ajahn Chah dừng chân để thiết lập tu viện Wat Pah Pong tại một vùng quê thuộc miền Đông Bắc Thái Lan.
02/12/2012(Xem: 5870)
LỜI NHẮN NHỦ CỦA LÃO HÒA THƯỢNG TỊNH KHÔNG Khi tai kiếp đến người đáng ở sẽ được ở, người đáng đi thì phải đi. Sống chết đều có số, phú quý mạng đã định, tránh không được, thoát không khỏi. Người số không bị nạn, dù đại tai kiếp đến vẫn được sống sót bình an. Điều duy nhất ở hiện tại có thể tự cứu và độ tha chính là nghe đại Kinh giải, y giáo phụng hành, lão thật niệm Phật, buông xả vạn duyên, cầu sanh Tịnh-độ. Công đức niệm Phật bất khả tư nghì. Chỉ có niệm Phật, sửa lỗi mới giảm bớt tai nạn. Những phương pháp khác không còn kịp nữa! Diệt trừ vọng niệm. Tất cả đều tùy duyên là tốt.
17/10/2012(Xem: 2818)
Danh từ Đạo Phật "Buddhism" là một danh từ của người phương Tây dùng để gọi một tôn giáo xây dựng trên nền tảng các lời dạy của Đức Phật. Tuy nhiên, tại các quốc gia Nam Á và Đông Nam Á, danh từ thường dùng là "Buddha-Sasana", có nghĩa là lời dạy của Đức Phật, Phật pháp hay Phật Giáo. Từ Buddha được phiên âm ra tiếng Việt là Bụt hay Phật, không phải là tên riêng. Đó là một quả vị, có nghĩa là người Giác ngộ, người Tỉnh thức, hoặc là người Biết như thật, là người đã hoàn toàn giải thoát, không còn bị sinh tử luân hồi.
17/09/2012(Xem: 2596)
Gần đây tôi nghe nhiều người tu niệm Phật nói về hai việc khiến tôi rất hoang mang. Một là, phải quy y Phật A Di Đà với pháp danh Diệu Âm mới được vãng sanh Tịnh độ. Hai là, thời mạt pháp này chỉ nên niệm Phật A Di Đà và tụng kinh Vô Lượng Thọthôi, không nên tụng những kinh khác. Mong quý Báo giải thích hai vấn đề cho tôi được hiểu để an tâm trong việc tu tập theo pháp môn Tịnh độ truyền thống.
01/08/2012(Xem: 2668)
Theo kinh nghiệm của riêng tôi, chúng ta cảm thấy toại nguyện, tĩnh lặng và hạnh phúc. Hạnh phúc là hạnh phúc! Mọi người đang cố gắng để đạt được hạnh phúc. Cây cỏ có sự sống, nhưng tôi không chắc là chúng có cảm giác hay không. Chúng ta, trái lại, kinh nghiệm khổ đau và vui sướng. Khi chúng ta nói về chúng sinh, chúng ta liên hệ đến những tạo vật có sự sống cũng như những kinh nghiệm đớn đau và khoái lạc của chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567