Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Báo Chánh Pháp số 111, Xuân Tân Sửu (tháng 02, 2021)

02/02/202106:02(Xem: 7481)
Báo Chánh Pháp số 111, Xuân Tân Sửu (tháng 02, 2021)

Bia_Báo Chánh Pháp_số 111_02_2021.(tháng 02.2021)

(bấm vào tiêu đề ở trên hoặc hình bìa ở dưới để đọc trọn số báo in trên giấy với dạng PDF.

Các hình ảnh/minh họa trên báo giấy së được lược bớt khi đưa lên mạng.

Máy của bạn cần có Adobe Reader để mở PDF)

  

Hình bìa của  Đặng Thị Quế Phượng

 

 

 

NỘI DUNG SỐ NÀY:

·   THÔNG BẠCH XUÂN TÂN SỬU 2021 (Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTNHK)

·   THƯ CHÚC XUÂN CHÙA BÁT NHà(HT.Thích Nguyên Trí)

·   THƯ CHÚC XUÂN TÂN SỬU 2021 (Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK)

·   THƯ TÒA SOẠN, trang 2

·   LỜI CHÚC ĐẦU NĂM: LỢI MÌNH, LỢI NGƯỜI (Nguyễn Thế Đăng), trang 4

·   HẰNG CHUYỂN TINH KHÔI (Thích Thanh Thắng), trang 6

·   BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH (HT. Thích Thắng Hoan dịch), trang 9

·   THƯ KHÁNH THỌ (Tỳ kheo Tuệ Sỹ), trang 12

·   VẤN ĐỀ KHỔ-VUI (Ns. Trí Hải), trang 13

·   MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU (Trúc Thiên), trang 14

·   CÂN BẰNG TỊCH TĨNH VÀ ĐỊNH TUỆ (Tuệ Uyển dịch), trang 20

·   TÂM THƯ XÂY DỰNG TĂNG XÁ CHÙA BÁT NHÃ, trang 22

·   LÁ THƯ XUÂN, (Tổ đình Từ Đàm Hải Ngoại), trang 24

·   CHĂN TRÂU (Diệu Huyền), trang 27

·   NGƯỜI TRÌ PHÁP – Câu chuyện cuối tuần (Nhóm Áo Lam), trang 32

·   HOA ƯU ĐÀM CỦA GIÁO HỘI (Thích Nữ Giới Hương), trang 34

·   NHỮNG CÂU ĐỐI CHỮ VIỆT CỦA CỐ HT. THÍCH THIỆN SIÊU, trang 37

·   FYODOR DOSTOEVSKY, BROTHER KARAMAZOV VÀ CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT (Huỳnh Kim Quang), tr. 40

·   THÍCH VÀ GHÉT, NHÂN VÀ QUẢ (Toại Khanh), trang 47

·   VÔ THƯỜNG LÀ BÀI THƠ ĐẸP (Cư sĩ Liên Hoa), trang 49

·   SỐT RUỘT THÁNG GIÊNG (Nguyễn Ngọc Tư), trang 55

·   MÙA XUÂN ĐI TÌM GƯƠM THẦN (Doãn Quốc Sỹ), trang 58

·   PHE PHÁI, TRANH CHẤP BỞI VÌ ĐÂU? (Quảng Tánh), trang 65

·   MÙA XUÂN VÀ PHẨM TÙNG ĐỊA DÕNG XUẤT (TN. Huệ Trân), trang 67

·   TRUYỆN CỰC NGẮN (Hoàng Long), trang 70

·   THỜI GIAN Ý THỨC (Thích nữ Tịnh Quang), trang 73

·   VÔ THƯỜNG VÀ THƯỜNG QUA BÀI KỆ CÁO TẬT THỊ CHÚNG (Thích nữ An Trí), trang 77

·   TRUYỆN CỰC NGẮN (Steven N.), trang 80

·   BÙI GIÁNG: CÁI ĐƯỢC THẤY LÀ KHỔ ĐẾ (Nguyên Giác), trang 83

·   MÙA XUÂN, HOA VÀ THIẾU NỮ (Vũ Thế Ngọc), trang 88

·   HOÀNG DIỆU VÀ EM (Nguyễn Văn Sâm), trang 91

·   CẢM HỨNG TỪ PHỤ NỮ PHẬT GIÁO (Tiểu Lục Thần Phong) trang 93

·   DINH DƯỠNG VÀ LÃO HÓA (Bs. Nguyễn Ý Đức), trang 96

·   THỜI GIAN KHÔNG CHỜ ĐỢI AI (Thích nữ Hằng Như), trang 99

·   NHỮNG VIÊN THUỐC BỌC ĐƯỜNG (Nguyễn Minh Tiến), trang 103

·   TRANH CHĂN TRÂU THIỀN TÔNG  (TM Ngô Tằng Giao), trang 107

·   TIẾNG RAO HÀNG (Hạnh Thuần), trang 113

·   HAI MẢNH XUÂN (Tôn N Thanh Yên), trang 114

·   HÌNH BÓNG CON TRÂU QUA CA DAO TỤC NGỮ  (TK Vĩnh Hữu), trang 119

·   CHÙA QUÁN SỨ Ở BẮC VIỆT (Nguyễn Lang), trang 122

·   TỊNH XÁ KỲ HOÀN (Truyện cổ Phật giáo), trang 125

·   LIỆU NƯỚC MỸ CÓ BỊ CHIA CẮT KHÔNG? (Đào Văn Bình), trang 132

·   STORY OF NIGANTHA ASCETICS (Daw Mya Tin), trang 135

·   HƯƠNG XUÂN VIỄN XỨ (Nhuận Hùng), trang 137

·   EMILY DICKINSON, NHÀ THƠ ẨN DẬT TRONG CÕI THƠ VÔ NGà(Huỳnh Kim Quang), trang 140

·   TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 146

·   NGÕ THOÁT, chương bốn – truyện dài (Vĩnh Hảo), trang 152

·   NẤU CHAY: BÍ ĐỎ KHO PHỔ TAI ĐẬU HŨ (Gia Phượng), trang 160

 

CÙNG VỚI THƠ CỦA: Thắng Hoan, ĐNT Tín Nghĩa, Hạnh Chi, Thích Phước Hạnh, Tâm Thường Định, Nguyễn Thanh Huy, MĐ Triều Tâm Ảnh, Kiều Mộng Hà, Phù Du, Mãn Đường Hồng, TN. Giới Hương, Tâm Nhiên, Mặc Phương Tử, Hiền Nguyễn, QT. Trần Cầm, Phan Tấn Hải, Du Tâm Lãng Tử, Lãng Nguyệt, Hoang Phong, Diêu Linh, Pháp Hoan, Trịnh Gia Mỹ, Chúc Hiền, Minh Đạo, Tuệ Nha, TM Ngô Tằng Giao, Diệu Viên, Thy An, Đồng Thiện, Hồ Thanh Nhã, Tiểu Lục Thần Phong, Thục Uyên, Nguyên Ngộ, Lưu Lãng Khách...



CHĂN TRÂU MÙA XUÂN

 

Vĩnh Hảo

 

 

Con trâu già nằm nghỉ bên sông, miệng vẫn còn nhai nhóp nhép. Nắng chiều lấp loáng trên mặt nước. Con cò trắng vỗ cánh bay về non tây. Mục tử nghêu ngao bài đồng dao, phóc lên lưng trâu, cỡi về. Lều tranh lưng núi un khói trắng. Lối về trùng điệp cỏ lau, phất phơ múa nhảy theo gió.

 

Trâu vốn hiền lành và cũng dễ huấn luyện nên người đi chăn ở thôn quê thường khi chỉ là những đứa trẻ, có khi năm, sáu tuổi cũng chăn được. Thảng hoặc có người lớn đi chăn thì do gia đình không có con nhỏ, hay vì bọn nhỏ mắc đi học, sau giờ tan học mới quẳng tập mà trèo lưng trâu.

Thiền tông lấy việc chăn trâu vẽ thành một biểu đồ tu tập, từ tiệm tu đến đốn ngộ, từ đốn ngộ vào tiệm tu. Ở đời, không có việc làm gì mà chẳng trải qua thời gian và kinh nghiệm. Chuyện nhỏ còn vậy huống gì là tu luyện để giác ngộ, giải thoát. Không có chuyện lập tức thành Phật, hay chỉ chắp tay niệm nam-mô mà thành Phật, hoặc “buông đao xuống là thành Phật,” (1) như nhiều người suy diễn và ảo tưởng. “Thành Phật” trong những thành ngữ trên chỉ có ý nghĩa là gieo được nhân lành cho con đường hướng về Phật quả, hoặc chỉ đơn giản là trở thành người tốt.

Con trâu được huấn luyện từ nhỏ tất nhiên sẽ thuần thục, dễ xỏ mũi, dễ sai bảo, dắt đi. Suốt thời gian được chăn dắt, có khi trâu cũng bất ngờ nổi điên, báng húc với trâu khác, hoặc gặp một sự kiện bất ngờ nào đó làm cho hoảng sợ, khiến chạy thục mạng từ làng này qua thôn khác, chạy từ trưa đến chiều tối mới dụ nó đem về lại nhà.

Trâu trong Thiền chính là tâm. Chăn trâu là điều phục tâm. Điều phục tâm là phương thức căn bản của Thiền, từ sơ cơ đến thượng thừa, nhất định là phải kinh qua. Thời gian nhanh hay chậm là tùy theo căn cơ. Nhưng tối hậu của sự chế ngự là vô ngại tự tại, không cần chế ngự gì nữa. Nghĩa là thấy được con trâu ấy, bản tâm ấy, không hề bị nhuốm sình hoen ố, không hề tổn hao hay tăng trưởng, mà nó luôn như thế, thường hằng như thế. Nơi cảnh giới ấy, không có kẻ chăn trâu, cũng không có trâu. Người và trâu bất nhị. Tâm và cảnh nhất như.

“Người trâu roi vọt đều không

Trời xanh vời vợi mù trông chốc mòng

Tuyết khoe trắng giữa than hồng

Cội nguồn quê quán tao phùng một phen” (2)

(Tuệ Sỹ dịch)

 

Tất nhiên để được thong dong không cần để mắt đến mà trâu vẫn ngoan hiền, nằm yên, không quậy phá thì cũng phải trải qua một quá trình huấn dục nhọc nhằn, khó khăn, mà tự đứa trẻ chăn trâu phải làm lấy, không thể nhờ cậy ai, hoặc cướp công của ai để được ngồi lên lưng con trâu ấy.

Việc nhà, việc nước, văn hóa và chính trị, cũng cần một trình tự huấn luyện, giáo dục về đức hạnh, kiến thức và kinh nghiệm như chăn trâu. Một con trâu hoang dã chưa được chế ngự chăn dắt, chắc chắn sẽ dẫm đạp và gặm hết ruộng lúa của người (3).

Tu thân như chăn trâu. Dạy người như chăn trâu. Nói thì đơn giản, làm mới thực là khó. Tâm buông lung thì tham, sân, si hừng hực, hại mình hại người, không gì ngăn nổi. Người thiếu đức, vô hạnh thì sống nơi đâu cũng chỉ biết có mình, vì mình; suốt đời chạy theo danh vọng quyền lực. Danh vọng quyền lực càng cao, kẻ vô đức càng dễ phá nát xã hội, tàn hại quốc gia; chuốc tiếng cười chê với thiên hạ mai sau (4). Chi bằng khiêm cung lo học bài học căn bản làm người, từng bước gột rửa bản tâm, không tham lam của người, không hận thù đố kỵ, không cuồng si chạy theo những thần tượng hào nhoáng, xem danh lợi như không hoa, lấy điều lợi ích cho người làm lý tưởng cuộc sống.

Được vậy thì, sáng có thể vắt vẻo ngồi lưng trâu, chiều có thể tha hồ thổi sáo thả diều nơi đồng vắng. Thương người, yêu quê. Thiết tha sống hòa với núi sông. Tâm tư dàn trải với đất trời vô hạn. Lồng lộng gió rung những nhành lúa mới. Nội cỏ ngàn hoa đâu cũng phảng phất hương xuân theo về.

 

California, ngày 17 tháng 01 năm 2021

Vĩnh Hảo

www.vinhhao.info

 

______________

 

(1) “Phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật,” tức là từ đồ tễ trở thành người hiền, người tốt. Chữ Phật ở đây chỉ cho tánh thiện.

(2) “Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không

Bích thiên liêu quách tín nan thông

Hồng lô diệm thượng tranh dung tuyết

Đáo thử phương năng hiệp tổ tông.”

(Nhân ngưu câu vong – bài tụng thi của Thiền sư Quách Am, tranh số 8)

(3) Các thầy Tỷ kheo, đã ở trong tịnh giới thì phải chế ngự năm thứ giác quan, không cho phóng túng vào trong năm thứ dục lạc. Như kẻ chăn trâu, cầm gậy mà coi giữ, không cho phóng túng, phạm vào lúa má của người…” (Kinh Di Giáo, HT. Thích Trí Quang dịch). 

(4) “Trong dòng chảy thế tục, người ngu tham danh tiếng, không biết giữ đạo tối thắng. Cái họa của danh vọng hão huyền luôn dẫn đến nhiều hối hận về sau.” (Chúc Phú, Kinh Tứ Thập Nhị Chương - Đối Chiếu và Nhận Định, Chương 19, Danh Vọng Hão Huyền, trang 172, nxb Hồng Đức 2014)

 


pdfBáo Chánh Pháp_số 111_02_2021



00logo-bao-chanh-phap


***


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/01/2014(Xem: 6598)
Hồi trước, ở quê tôi người ta gọi là hát bội chứ không ai nói là hát bộ, như câu ca, có ông chồng say như trong chay ngoài bội, ngó vô nhà như ngày hội Tầm Dương …, còn bài chòi thì gọi là hô chứ không ai gọi hát hay ca. Cái nôi của bài chòi và hát bội là ở vùng Nam Ngãi Bình Phú, nhưng không dừng ở đó, mà lan tỏa sang các tỉnh thành khác lân cận, tạo nên hình thức giải trí có tính cách thưởng ngoạn và mang lại sự say mê trong mọi tầng lớp nhân dân. Về hát bội, có cả nhóm hát nghiệp dư và những đoàn hát chuyên nghiệp.
26/01/2014(Xem: 12952)
Tranh thêu ngựa là một trong những bức tranh đẹp và rất có ý nghĩa. Bởi theo phong thủy, ngựa không những là con vật trung thành nhất mà ngựa còn là biểu tượng của sự kiên nhẫn, bền bỉ, lâu dài, ngựa mang lại sự may mắn, tài lộc.
26/01/2014(Xem: 6340)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến. Cũng mong thế. Lang thang dạo bước trên mạng Internet tôi thấy có người còn chú thêm là: nguyên ý câu “Mã Đáo Thành Công” là “Kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công”; có nghĩa: Cờ phất (làm hiệu) chiến thắng, ngựa quay về (báo tin) thành công.
25/01/2014(Xem: 17307)
Tự do tự tại là đây Là buông xuống hết gánh đầy nặng mang Chỉ còn thực tại ngọc vàng Vốn là trọn vẹn ngay đang bây giờ
25/01/2014(Xem: 9136)
Theo truyền thống Phật giáo Nam truyền, sau khi nhận lễ phẩm cúng dường, chư Tăng thường chúc phúc cho Phật tử bằng bốn pháp: sống lâu, sắc đẹp, an vui và sức mạnh
24/01/2014(Xem: 6428)
Nơi miền bắc Ấn Độ xưa Trong vương quốc nọ có vua trị vì Giúp vua là vị quan kia Có tài định giá những gì bán buôn Đưa ra giá xứng hợp luôn Thật thà, chính xác, chuyên môn, lành nghề. Riêng nhà vua lại thường chê Vì tiền lời chẳng mang về đầy tay Khi quan định giá kiểu này Vua không được lợi, muốn thay quan rồi,
24/01/2014(Xem: 7218)
Là loài vật rất phổ biến và hiện diện từ lâu trên khắp thế giới, con ngựa đi luôn vào ngôn ngữ của nhiều vùng miền, nhiều dân tộc, nhiều quốc gia. Hình dáng, cấu tạo, đặc tính, sinh hoạt, ảnh hưởng…của ngựa cũng trở thành các hình tượng ẩn dụ tiêu biểu cho những câu tục ngữ độc đáo, đắt nghĩa.
24/01/2014(Xem: 10838)
Trước hết, ngựa có nhiều loại, dựa vào màu lông có ngựa bạch (lông màu trắng), ngựa ô (lông màu đen tuyền), ngựa hồng (lông màu đen pha đỏ đậm), ngựa tía (lông màu tím đỏ pha đen), ngựa vằn (lông màu trắng sọc đen), ngựa kim (lông màu trắng mốc), ngoài ra còn có ngựa xám, ngựa đỏ, ngựa bích..
24/01/2014(Xem: 19566)
Mứt Gừng Bánh Tét đà sẵn đây Cùng với lời Thơ dâng kính Thầy Mai Vàng tươi thắm khoe sắc ấy Con biết Xuân về Thầy cũng hay !
24/01/2014(Xem: 7411)
Quần thể hang động Mạc Cao nằm ở vùng địa lý khô cằn cực Tây Bắc của tỉnh Cam Túc (Trung Quốc), gồm 402 điện thờ Phật giáo trải rộng trên 1.600 m. Quần thể hang động chứa rất nhiều bức bích họa Phật giáo (tranh Phật giáo được khắc họa trên tường) là một trong ba bảo tàng hang động lớn của Trung Quốc, bên cạnh Vân Cương (tỉnh Tây Sơn) và Long Môn (tỉnh Hà Nam).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]