Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cùng tạo thành mùa xuân cho nhau

21/02/201507:24(Xem: 4702)
Cùng tạo thành mùa xuân cho nhau



Hoa Mai 3a
Cùng tạo thành mùa xuân cho nhau

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật



HT Thich Thai Hoa (18)

Thưa Đại Chúng,

Hôm nay là ngày mồng hai, tháng giêng, năm Ất mùi (20 -2 -2015), tại Tịnh Quang Thiền đường Chùa Phước Duyên-Huế, trước thềm năm mới, trước thềm xuân Di Lặc, tôi thay mặt Hòa thượng Trú trì và Tăng chúng bổn tự, kính chúc toàn thể Phật tử các giới và các Học chúng tu học tại bổn tự Phước Duyên, luôn luôn sống trong niềm hỷ lạc và hào quang của chư Phật.

Và tôi xin chia sẻ Pháp thoại đầu năm đến Đại chúng với những điều sau đây:

Từ một cây mai

Trước Tàng Kinh Các, chùa Phước Duyên – Huế, có hai cây mai, năm này nở rất đẹp, lá lộc rất non và xanh tươi mơn mởn. Mỗi ngày tôi dành mười phút để ngắm nhìn những cây hoa mai ấy và đã học hỏi từ nó rất nhiều.

 

Trời vào hạ, lá của mai sạm nắng, nên màu xanh rất đậm, đến trời vào thu, màu xanh sạm nắng của mai ngã sang màu vàng nhạt và trời vào đông, mưa rét lạnh, lá của mai vàng hẳn, thỉnh thoảng đùa với gió đông và từ từ tự rơi xuống nằm yên với đất và cuối đông thì mai chỉ còn lại thân cây đứng khẳng khiu, trơ trụi. Nhưng khi tiết vào xuân, cây hoa mai ươm nụ nở hoa và ra lộc non xanh mơn mởn. Tiết vào đông nhìn cây hoa mai cô quạnh, khẳng khiu bao nhiêu, thì khi tiết xuân đến, cây hoa mai cho ta thấy sức sống tràn đầy, nụ ươm và nở hoa vàng rực rỡ, rồi suốt cả mùa xuân, cây hoa mai cho ta lộc non, xanh tươi mơn mởn trông thật đẹp mắt bấy nhiêu.

 

Nhìn cây hoa mai qua bốn mùa, cây hoa mai cho tôi bài học “thủ tiết” và tôi đã học hạnh “thủ tiết” từ cây mai. Nhìn cây hoa mai qua bốn mùa, cây hoa mai cho tôi bài học “ứng xử” và tôi học hạnh “ứng xử” từ cây hoa mai. Hạnh của cây hoa mai là hạnh “tùy duyên mà thủ tiết; thủ tiết mà tùy duyên”. Hoa mai vận hành theo bốn mùa mà vẫn giữ được cái tinh tiết của mình đúng chỗ, và thể hiện cái tinh tiết đó đúng lúc. Đó là “cốt cách và ứng xử của mai”.

 

hoa_mai_11

Cốt cách và ứng xử ấy, tôi đã học từ nơi hai cây hoa mai trước Tàng Kinh Các của chùa Phước Duyên – Huế mỗi ngày. Tôi xem hai cây hoa mai ấy là hai vị Bồ tát của tôi đã dạy cho tôi mỗi ngày, bằng ngôn ngữ tịch lặng và sống động của “thủ tiết và ứng xử”, chứ không phải bằng ngôn ngữ quy ước hay công thức cứng đờ.

 

Khi cây mai nở hoa đẹp, lá xanh non mơn mởn, môi trường của mai thanh cao, tôi đã thấy ít ra là sáu chủng loại xuất hiện và thân thiện với mai. Chú tắt kè; chú sâu; chú bướm; chú ong; chú chim sẽ; chú mèo. Chú tắt kè nằm hong nắng xuân trên cành lá của cây mai ngẩng đầu lên cao về phía mặt trời; chú sâu nằm thu mình nơi nhụy của hoa mai; chú bướm bay tung tăng chạm vào phấn của hoa mai với đôi cánh vỗ thật nhẹ nhàng; chú ong bay vào, bay ra, bay đi, bay lại rộn ràng hút nhụy của hoa mai; chú chim sẽ bay qua, bay lại, nhảy nhót reo hót và bắt những chú sâu trong nhụy mai để ăn một cách thích thú; chú mèo ngồi dưới gốc mai nhìn lên những chú chim sẽ trên cành mai để chờ có cơ hội là nhảy đến vồ chụp. Nhiều chủng loại chăm chú rộn ràng với mai như vậy, nhưng mai thì bất động. Tôi học bài học “bất động” từ mai, trước những biến động của muôn loài. Nhờ bất động trước những xôn xao ấy, nên mai đã tạo ra được một cốt cách cho chính mình và dáng vẻ, hương vị mùa xuân cho muôn loài. Muôn loài thì hăm hở dáng vẻ và hương vị của mai, nhưng mai thì bất động trước những biến động rộn ràng ấy, đó là cốt cách của mai; đó là nét thanh cao của mai. Cốt cách và thanh cao ấy, mai phải kham nhẫn và tinh tấn luyện tập mỗi ngày qua mùa hạ; mỗi ngày qua mùa thu; và trong từng ngày lạnh buốt khắc nghiệt qua mùa đông, để khi xuân đến, thì mai là xuân, của xuân, cho xuân và để cho muôn loài tùy duyên vui hưởng. Tôi đã học bài học kham nhẫn và tinh tấn từ mai. Và qua mai, tôi cũng đã nhận ra, tại sao đức Phật ca ngợi hạnh kham nhẫn là đạo lý bậc nhất? Nhờ hạnh kham nhẫn mà mình có thể thực hiện được những gì mình có thể ước nguyện và nhờ hạnh tinh tấn mà mình có khả năng biến những ước nguyện của mình trở thành hiện thực. Nên, với hạnh kham nhẫn và tinh tấn, ta có thể tạo ra hương vị xuân cho chính ta và cho cả muôn loài. Vì vậy, tôi đã thấy hạnh của Bồ tát từ nơi hai cây hoa mai, trước Tàng Kinh Các của chùa Phước Duyên – Huế mỗi ngày, và mỗi ngày đi qua trong mùa hạ, mùa thu, mùa đông, mùa xuân tôi đều chắp tay, cúi đầu trước hạnh của hoa mai.

 

Nhìn lại tâm ta

Trong kinh A-hàm, đức Phật dạy: “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác”. Nghĩa là mọi chuyện khổ đau hay hạnh phúc; hy vọng hay thất vọng; yêu đời hay chán nản; địa ngục hay thiên đàng; phàm phu hay hiền thánh, Phật hay chúng sanh; Tịnh độ hay Ta bà đều do tâm ta tác động mà tạo thành. Tâm gắn liền với trí tuệ, với từ bi hỷ xả, với độ lượng bao dung, thì tâm sẽ tạo ra hạnh phúc, an lạc, thiên đàng, tịnh độ cho ta. Tâm gắn liền với vô minh, tham dục, sân hận, si mê, ích kỷ, kiêu mạn, thì tâm sẽ tạo ra khổ đau, thất vọng, chán nản, oán thù, địa ngục cho ta. Nơi tâm ta, chứa đựng đầy đủ hai năng lực tiêu cực và tích cực đối với cuộc sống. Nếu ta sống với khuynh hướng nào, tâm ta sẽ có khả năng tạo ra cho ta cảnh giới đúng với khuynh hướng ấy của tâm ta. Và tâm ta như thế nào, thì khi đối diện với cảnh vật hay môi trường chung quanh, ta sẽ cảm nhận đúng như những gì mà cái biết ở trong tâm ta lượng định. Vì vậy, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật dạy “Tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng”. Nghĩa là “mọi sự hiểu biết hay cảm nhận đều tùy theo tâm lượng định của chúng sanh”. Tâm ta ngang đâu thì ta hiểu biết và cảm nhận sự sống ngang đó, chứ chân lý của sự sống không phải ngang tầm với tâm ta hiểu biết và cảm nhận. Cho nên, các chủng loại khi đối diện với hoa mai, thì tùy theo tâm thức hiểu biết của từng chủng loại mà ứng xử và cảm nhận, chứ cốt cách của mai đâu có phải do những cảm nhận ấy của các chủng loại mà nó trở thành ra những cái ấy.

 

Xuân là khôi nguyên của sự sống; là tinh hoa của tâm; là rực sáng của tự tánh, nên: “Dễ ai trong cõi tang bồng ấy, ôm được Chúa xuân thỏa một lần”.

Ta đa đoan, vì tâm ta hỗn độn trăm mối; đời sống ta đa đoan, vì tâm ta tính toán lợi hại hơn thua đủ điều; ta bao phen chìm nổi, vì tâm ta bận rộn thị phi của mọi người và muôn vật; ta thất vọng, khổ đau, vì tâm ta tham dục quá nhiều. Nên, xuân đến với ta cũng chỉ là những hỗn độn trăm mối; cũng chỉ là những lợi hại hơn thua đủ điều; cũng chỉ là những thị phi lắm chuyện trên đời. Nhưng đó chỉ là xuân của tâm ta, chứ đâu phải là xuân của xuân và xuân của những tâm hồn tinh khôi, rực sáng và tĩnh lặng và đâu có phải là xuân của khôi nguyên.

Nên, mỗi khi xuân đến, ta có cơ hội nhìn lại tâm ta để trở về sống với bản tánh tinh khôi, rực sáng nơi tâm, để ta hiện hữu với Chúa xuân và Chúa xuân cùng với ta hiện hữu.

 

Con đường trở về

Có một du khách hỏi vị Thiền sư: “Thế nào là xuân?”. Sư trả lời: “Đừng mò trăng dưới nước”. Khách nói: “Không hiểu”. Sư nói: “Tâm đã sạch mặc áo gì cũng đẹp; lòng vô ưu còn hỏi chuyện chi xuân!”. Khách cười. Sư mời khách: “uống trà đi!”.

Buông bỏ mọi tạp niệm, ngay cả những ý niệm về xuân để trở về với tâm, ta sẽ gặp tâm xuân của ta. Tâm xuân là Chúa xuân của đời ta và muôn vật. Bấy giờ ta sẽ thấy Chúa xuân tức khắc sáng rực, hiện ra nơi tâm ta, cho ta một mùa xuân hồn nhiên, đầy tin yêu và sức sống, đủ can đảm nhìn vào những biến thiên với muôn hình vạn trạng của con người và xã hội để mỉm cười một cách an nhiên.

 

Nếu ta không buông bỏ tạp niệm về xuân, thì ta chỉ là những lữ khách chạy rong theo hình bóng của xuân, chẳng khác nào những kẻ đa tình lăn xăn đi tìm trăng, nhảy xuống đầm sâu để mò trăng đáy nước!

 

Ta buông bỏ mọi tạp niệm về xuân, thì tức khắc tâm xuân cùng với ta hiện hữu. Ta đem tâm xuân ấy mà cúng dường đức Phật, Thầy Tổ; Ta đem tâm xuân ấy mà thắp hương tưởng niệm, nghĩ đến Tổ tiên ông bà, cha mẹ, người thân đã qua đời, dù đang ở thế giới nào cũng sống với tâm xuân và có tâm xuân để sống; đồng thời cầu nguyện cho những người thân yêu của mình dù đang còn sống bất cử ở phương trời nào, cũng có thể quay về được với tâm xuân, để có những phút giây sống thật đẹp và thật yên bình ngay nơi nhân thế. Và ta cũng đem tâm xuân đó, cầu nguyện cho mọi người, khắp trong mọi giới, ai ai cũng đều biết quay về với tâm xuân, noi theo đường tu tập, bỏ ác làm lành, để cùng nhau tạo hưởng được một mùa xuân đích thực.

 

                                                                              Thích Thái Hòa

                                      

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/01/2014(Xem: 6534)
Thành Ba-La-Nại thuở xưa Ở miền bắc Ấn có vua trị vì Quốc vương nhiều ngựa kể chi Nhưng riêng một ngựa kia thì tuyệt luân Ngựa nòi, giống tốt vô ngần Lớn to, mạnh mẽ thêm phần thông minh Ngựa từ nhỏ đã khôn lanh Chưa cần nghe lệnh sai mình tới lui Đoán ra ý đó ngay rồi Quốc vương khen ngợi: "Ngựa nòi thông minh!" Ngựa nòi nổi tiếng trong kinh
17/01/2014(Xem: 5253)
Ở bên Ấn Độ thời xưa Trong vương quốc nọ gió mưa thuận hoà Ngựa vua quý báu, kiêu sa Mỗi khi tắm táp hay ra phía ngoài Nơi dòng sông chảy khoan thai Có vùng nước cạn các nài thường quen Thường mang ngựa tắm nhiều phen
15/01/2014(Xem: 7155)
Cảm xúc cuối năm... Tuyết lưu luyến mùa Đông chưa rời bước, Cho cành Mai chớm nụ rước mùa Xuân, Để lòng tôi được xao xuyến , bâng khuâng, Cùng kỷ niệm những ngày Xuân quá khứ .
15/01/2014(Xem: 5492)
Không phải ngẫu nhiên mà người phương Tây có nhận xét: “Người Việt Nam coi trọng người chết hơn người sống”. Cứ nhìn vào những kỳ lễ lạt, cúng kính tất sẽ thấy được về mặt nào đó nhận xét trên không phải là không có lý do xác đáng. Tưởng nhớ đến người đã nằm xuống là nghĩ về nguồn cội,
14/01/2014(Xem: 11708)
Xuân đã về trên cánh Mai vàng Sắc Xuân tươi thắm đẹp Trần gian Trăm hoa đua nở càng lộng lẫy Nhân thế đón Xuân rộn tâm can
13/01/2014(Xem: 9825)
Hằng năm, cứ vào độ Xuân về Tết đến, tôi cố gắng viết một bài để đóng góp vào số Báo Xuân Viên Giác và Website chùa Viên Giác; Cũng là dịp để mong được gặp gỡ quý Độc giả, quý Văn Thi hữu trên Văn Đàn và xin gởi trao những lời Chúc Mừng Năm Mới thân thương nhứt.
13/01/2014(Xem: 5750)
Trong số những con ngựa nổi tiếng thời cổ đại, đầu tiên phải nhắc đến Ngựa Xích Thố thời Tam Quốc. Con ngựa này dài một trượng, cao tám thước, màu đỏ rực như lửa, tuyệt không có một sợi lông tạp, ngày đi ngàn dặm, trèo non vượt suối dễ dàng.
13/01/2014(Xem: 8611)
Hình tượng con ngựa hiện diện từ sớm trong văn hóa Đông-Tây, con ngựa là một trong những loài vật được con người thuần hóa và sử dụng trong đời sống hàng ngày và loài vật gắn liền với chiến tranh. Hình ảnh con ngựa còn là chủ đề cho các môn nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, thơ văn... Đối với văn hóa phương Tây, ngựa gắn liền với nhiều biểu tượng thần thoại và gắn liền với hình ảnh Nhân Mã trong 12 Cung Hoàng đạo.
13/01/2014(Xem: 6566)
Một cây cầu có thể đưa hết tất cả người, súc vật, hàng hóa đi qua trên đó. Đưa qua hết thảy, không kể sang hèn quí tiện. Cái chính là có đưa qua hết - tất cánh độ khứ - được hay không? Nếu không qua lọt, hoặc đi qua một cách khó khăn thì đích thị là cầu khỉ rồi. Hoặc đôi khi người qua rồi, bóng còn kẹt lại bên cầu.
13/01/2014(Xem: 8621)
Lời Ngỏ: Nhân dịp mừng Xuân Giáp Ngọ 2014, Trang Nhà Quảng Đức xin trân trọng giới thiệu kinh "Lâu đài của ngựa Kiền-trắc". Kanthaka (Kiền Trắc) là con ngựa quý ra đời tại hoàng cung của Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) cùng một ngày với Thái tử Siddattha (Sĩ-đạt-ta). Kiền-trắc lớn lên và phục vụ nhà vua cho đến năm 29 tuỗi, nó cùng với người giữ ngựa Channa (Xa-nặc) đưa Thái tử lên đường xuất gia; sau đó ngựa đau buổn phát bệnh , từ trần và tái sanh lên cõi Trời. Câu chuyện này thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Tôn giả Mục-kiền-liên và Thiên tử Kiền-trắc trên Thiên giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567