Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Và Gã Cờ Bạc Bịp

03/12/202208:27(Xem: 4436)
Thiền Sư Và Gã Cờ Bạc Bịp


zen master


Thiền Sư Và Gã Cờ Bạc Bịp

Tại kinh thành Lạc Dương có một tay, trước là thương buôn sau chuyển sang nghề cờ bạc. Nhờ lanh lợi trong mánh lới buôn bán, gã học được nghề bịp rất nhanh. Tài bịp của gã giỏi tới mức không một ai biết mà chỉ cho rằng gã “số đỏ” hoặc “thiên tài”. Bao nhiêu tiền ngày hôm nay đều do cờ bạc mà có. Thế nhưng không hiều sao, có thể do ‘tổ trác” hay do “hết thời” mà gã thua liên tiếp, mất 50 lượng vàng tại một sòng bài lớn. Vừa tiếc của, vừa tức giận, vừa xấu hổ, gã cho mời viên  quản lý ra, lớn tiếng nói:

-Ta sống bằng nghề đánh bạc đã hơn hai mươi năm, chỉ có ăn mà không có thua. Nếu ta thua tức sòng bài gian lận. Yêu cầu quản lý trả lại 50 lượng vàng, nếu không ta sẽ thưa lên quan phủ.

            Nghe vậy viên quản lý vô cùng ngạc nhiên, nói:

-Thưa khách quan, sòng bài của chủ nhân chúng tôi mở ra đã năm mươi năm, cha truyền con nối. Nhiều phú gia, vương tôn công tử đến đây chơi, ăn có, thua có nhưng chưa một ai nói chúng tôi gian lận. Xin khách quan nghĩ lại.

            Biết rằng không thể đòi lại tiền. Vùng vằng, văng tục mấy tiếng, gã tức giận bỏ đi, về nhà nạp đơn lên quan phủ kiện đòi lại vàng. Khi nhận được đơn, quan phủ đăng đường, hỏi:

-Nhà ngươi có bằng chứng sòng bài gian lận  không?

            -Gã ấp úng nói:

-Thưa quan phủ không có…nhưng con cảm thấy có sự gian lận vì mặt tên quản lý trông rất gian. Cả tên hồ lỳ trông cũng gian lắm…và những con bạc có lẽ do chủ sòng bài gài vào làm cò mồi để lường gạt con không biết chừng.

            Quan phủ phán:

-Nhiều kẻ mặt mũi trông đẹp đẽ, hiền lành nhưng cũng làm chuyện gian ác. Mặt trông gian nhưng chưa chắc làm chuyện gian. Mặt mũi nhà ngươi trông cũng “gian” lắm nhưng ta không thể bỏ tù nhà ngươi vì bộ mặt được. Ngoài ra, những kẻ bước vào sòng bài có kẻ nào hiền lành đâu? Toàn là thứ ghê gớm cả, toàn là thứ muốn ăn tiền của thiên hạ. Ngươi đỏ-đen với họ thì phải biết chớ. Ngươi có biết câu “Cờ gian bạc lận” không? Nếu chẳng may bị lường gạt là đáng đời, còn thưa kiện gì nữa?

            Nói rồi truyền bãi chầu.

Vừa thất vọng vừa tức giận, nhưng do tiếc của và cho rằng mình bị xử oan, một lần nữa gã lại nạp đơn

lên quan thượng thư để đòi lại tiền. Nhận được đơn thưa, quan thượng thư bắt quỳ trước công đường, hỏi:

-Nhà ngươi có bằng chứng sòng bài gian lận không? Ai làm chuyện gian lận và gian lận thế nào?

            Lần này do đã nấu nung suy nghĩ và do kinh nghiệm thất bại ở tòa dưới, gã khôn ngoan nói:

-Bẩm quan thượng, sòng bài nào mỗi năm cũng đều đóng một số thuế rất lớn vào công khố. Nếu họ không ăn thì làm sao có tiền để đóng thuế? Mà muốn ăn thì phải gian lận. Nói tóm lại sòng bài là nơi gian lận có tổ chức để móc túi con bạc. Xin quan thượng thương tình ra lệnh cho họ trả lại 50 lượng vàng cho con.

            Nghe vậy quan thượng thư nói:

-Sòng bài là chỗ đỏ đen, sát phạt, chỗ bao kẻ nhiều tiền lắm của ném đi để giải trí. Nó cũng là chỗ tụ họp của bao kẻ lưu manh kiếm tiền. Nó là chốn địa ngục, nó là chốn gia đình tan nát. Nó là chỗ dẫn ra nghĩa địa hay vào ngục thất nhanh nhất. Rất nhiều kẻ đã sống bằng nghề cờ bạc, nhưng cũng có nhiểu kẻ tự vẫn vì cờ bạc. Điều này chứng tỏ cờ bạc có người ăn người thua. Chủ sòng bài lấy tiền hồ. Chính tiền hồ đã nuôi sống sòng bài và đóng thuế chứ chẳng phải lường gạt chi cả. Nhà ngươi thua kỳ này nhưng có thể ăn kỳ sau. Nhưng chung cuộc nếu nhà ngươi cứ tiếp tục đi vào con đường đỏ đen…thì sẽ tự treo cổ hoặc vào tù. Đòi tiền thua ở sòng bài cũng giống như đòi tiền cho gái vậy.

Ngừng lại rồi quan thượng thư phán tiếp:

-Khi nhà ngươi ăn, con bạc khác thua. Nếu con bạc thua đi kiện sòng bài gian lận thì ngươi nghĩ sao? Ngươi có trả lại tiền cho người ta không?

            Nói xong quan thượng thư truyền sai nha đuổi ra ngoài.

Vừa hận vừa buồn vừa tiếc của, vẫn chưa chịu thua, gã về nhà bán một số đồ vật quý giá, gom được một lạng vàng đút lót cho sai nha ở dinh quan tể tướng, nạp đơn thưa kiện một lần nữa.

Trong số sớ, công văn và trình báo từ các phủ bộ gửi về, quan tể tướng ngạc nhiên sao lại có một đơn thưa kiện cờ bạc lọt vào đây. Đọc xong quan tể tướng nổi giận phê, “Ta lo chuyện quốc gia đại sự, không  có thì  giờ giải quyết chuyện cờ gian bạc lận. Nếu còn lằng nhằng ta sẽ tống vào ngục thất!”

            Nghe sai nha đọc lời phê của quan tể tướng, gã choáng váng cả mặt mày. Quá tuyệt vọng, không về nhà, gã lang thang như một tên mất hồn giữa đường phố. Lang thang một hồi, gã tới trước cổng Bạch Mã Tự- một ngôi chùa nổi tiếng của kinh thành Lạc Dương lúc nào không hay. Quá mệt mỏi, gã bước vào chùa, chẳng phải để lễ Phật mà chỉ để nghỉ chân.

            Sân chùa hoàn toàn vắng lặng, thỉnh thoảng có tiếng chuông ngân nga vọng tới từ chính điện. Dưới tán cây cổ thụ, một vị sư đang ngồi tĩnh tọa trên một tảng đá vuông vức giống như một chiếc bàn, tay cầm một cuốn   kinh. Sự trầm mặc và thanh thản của nhà sư, nhất là khuôn mặt, dường như lan tỏa ra  cây cối, cảnh vật chung quanh khiến tạo nên một không khí vô cùng yên bình.

            Con người ta, khi đã tận nhân lực mà không giải quyết được chuyện đời và khi cùng đường, tuyệt vọng, thường bám víu vào thần linh, cúng vái, cầu nguyện khắp nơi, thậm chí gốc đa, tảng đá cũng lạy. Gã chợt có ý nghĩ là biết đâu nhờ Phật mà mình có thể lấy lại 50 lạng vàng không biết chừng vì nghe nói chùa này rất linh thiêng. Ngồi xuống một tảng đá bên cạnh, gã lặng yên quan sát nhà sư một hồi rồi lên tiếng:

-Chào thầy. Tôi muốn nhờ thầy một chuyện.

            Lặng lẽ bỏ cuốn kinh xuống, nhà sư đưa mắt hỏi:

-Ông muốn hỏi tôi chuyện gì?

            Gã cờ bạc bịp nói ngay:

-Tôi nghe nói Phật pháp nhiệm màu. Tôn Ngộ Không mà Phật Tổ còn trị được huống chi mấy kẻ gian lận. Xin thầy cho tôi biết liệu pháp Phật có thể giúp giải quyết được chuyện đời không?

            Sư hiền từ đáp:

-Pháp Phật bao trùm lên pháp thế gian. Mọi chuyện trên đời này đều do tham-sân-si biến hiện ra. Pháp Phật nhằm diệt trừt tham-sân-si cho nên có thể giải quyết tận gốc rễ chuyện của thế gian. Có chuyện gì xin ông cứ cho tôi biết. Nếu giúp được thì tôi nói “có” còn không giúp được thì tôi nói “không”.

            Được lời như cởi tấm lòng. Gã thành thực kể lại chuyện mình đánh bạc thua 50 lượng vàng vì sòng bài gian lận, kiện khắp nơi nhưng thất bại và mong thầy giúp cho một kế để lấy lại số vàng ấy.

            Nghe vậy sư nói:

-Phật pháp không giúp ông lấy lại được 50 lượng vàng. Nhưng Phật pháp có thể giúp ông quên đi số tiền đó. Tôi hỏi thật, số vàng ấy là do mồ hôi nước mắt của ông làm ra hay do đánh bạc mà có?

            Gã cờ bạc bịp thành thực thú nhận:

-Tiền đó là do đánh bạc mà có.

            Nghe thế sư nói:

-Nếu tiền đó không phải của ông thì nếu mất đi, có gì đâu mà tiếc? Con chim bay trên trời đâu phải của ông. Nay ông bắt được con chim, chẳng may sẩy tay, con chim bay đi thì có gì tiếc đâu?

            Nghe thuyết giáo như vậy, gã nổi cáu, gằn giọng, nói:

-Tiền bạc một khi đã ở trong tay tôi là của tôi. Nếu đã là “của tôi” thì mất đi phải thương tiếc chứ, “Của đau con xót” mà. Chẳng hạn như chiếc y thầy đang mặc kia là của thầy. Nếu có kẻ lấy đi thì thầy có đòi lại không?

            Vẫn với giọng hiền từ, sư nói:

-Cái y này không phải của tôi mà là của Phật tử bố thí cho. Ngay cả cái thân xác này cũng không phải của tôi bởi vì khi chết đi tôi chẳng thể mang theo. Cái ngai vàng kia cũng chẳng phải của vua. Cái phủ điện kia cũng chẳng phải của quan tể tướng. Thậm chí vợ con, của cải, tôi tớ mà ông đang có cũng chẳng phải của ông. Ông có thấy hồn ma nào hiện lên cùng với vợ con, của cải, thành quách không? Tất cả chỉ là những cái bóng trắng tay, cô đơn, vất vưởng. Tất cả những gì ông đang nhìn thấy trước mắt đây đều do nhân duyên giả hợp mà thành. Khi nhân duyên tan thì nó cũng sẽ chia ly, tan vỡ. Không có cái gì vĩnh viễn là của ông hay của tôi.

Nghe nói thế gã đâm bực bội, bèn lý sự với thiền sư:

-Thầy nói thế nghe sao được? Ít ra trên cõi đời này con người ta cũng phải có một cái gì chứ, chẳng lẽ trần trụi hết sao?

            Thiền sư mỉm cười nói:

-Có chứ. Có một thứ thật sự là của ông hay của tôi, đó là: cái thần thức, cái đầu óc linh mẫn, cái tâm, cái nghiệp. Những thứ này sẽ theo ông sau khi chết, kiếp này sang kiếp kia mà không một ai có thể đánh cắp, chiếm đoạt, lấy đi. Làm thế nào mà ai đó có thể chiếm đoạt, đánh cắp cái tâm từ bi hỷ xả, cái lòng độ lượng, cái nết bao dung của ông? Tất cả những gì thuộc thế giới hữu hình, hữu vi đều giả tạm và phải diệt mất. Còn tất cả những gì thuộc vô vi, thuộc tâm thì sẽ tồn tại mãi mãi. 50 lạng vàng kia nó đã qua tay nhiều người, nhiều đời và nó sẽ luân hồi mãi như thế. Ông đang tiếc nuối cũng như bao nhiêu người trong quá khứ đã tiếc nuối nó.

            Nghe sư giảng giải thế, dĩ nhiên gã chẳng hiểu nhiều, cuối cùng gã nói:

-Xin thầy ngắn gọn cho tôi biết làm thế nào để tôi có thể lấy lại 50 lạng vàng. Nếu lấy lại được tôi xin cúng chùa mười lạng.

            Sư cầm cuốn kinh đặt vào tay gã rồi nói:

-Đây là cuốn Bát Nhã Tâm Kinh, là thần chú vô cùng kỳ diệu. Ông đem về đọc đi, đọc thật nhiều cho đến khi nào không còn nuối tiếc, thương tiếc bất cứ cái gì trên cõi đời này…là thành công, là có thể lấy lại được vàng, muốn bao nhiêu cũng được. Nếu ông còn nuối tiếc bất cứ một cái gì trên cõi đời này thì hỏng tức không bao giờ có thể lấy lại được vàng. Ông có nghe chuyện Thục An Dương Vương xứ Âu Lạc bị mất nước, biến thành con chim kêu “Quốc!Quốc!” ngày đêm mà có lấy lại được nước đâu? Ngoài ra, nếu lấy lại được vàng xin ông làm việc phước thiện để đức cho con cháu. Nhà chùa giữ vàng bạc, châu báu để làm gì?

            Nói xong sư nói lời từ giã rồi chậm rãi bước vào bên trong. Cầm cuốn kinh, bước ra khỏi cổng chùa, trên đường đi, gã lẩm bẩm:

            -Không biết cuốn kinh này có giúp mình lấy lại 50 lạng vàng không? Khi nào quên hết thì có thể lấy lại vàng. Ngược lại nếu còn nhớ đến nó thì không sao lấy lại được. Không biết ông thầy này có điên không? Nhưng dầu sao cứ thử xem, có mất mát gì đâu.

Lời người kể chuyện:

            Khi Bát Nhã Tâm Kinh đã thấm vào máu thì có-không, được-thua, mất-còn cũng như nhau. Còn nếu cứ chấp trước rằng cái này là của tôi thì chung cuộc chẳng níu kéo được gì, mà chỉ khổ đau. Khi quan phủ không thể giúp gã lấy lại 50 lạng vàng. Khi quan thượng thư không thể giúp gã lấy lại 50 lạng vàng. Khi quan tể tướng cũng không thể giúp gã lấy lại 50 lạng vàng thì làm sao thiền sư có thể giúp gã lấy lại được? Thế nhưng khi gã đã hỏi, chẳng lẽ không giúp? Chỉ còn cách giúp gã buông bỏ, quên đi mà thôi. Đó là pháp Phật, pháp tối thượng của Phật, ngoài ra thì không còn pháp nào khác. Chính “cái của tôi” và lòng tham khiến con người không còn lý trí nữa. Nếu vì nghiệp chướng sâu dày,  gã cứ mãi tiếc thương 50 lạng vàng thì - một là gã sẽ hóa điên, hai là rầu rĩ sanh bệnh mà chết hoặc giả gã sẽ tới giết viên quản lý để lấy lại vàng và kết cuộc sẽ lên đoạn đầu đài hoặc ở tù suốt đời. Pháp Phật chỉ độ được người có trí tuệ, có thiện căn mà không thể độ được kẻ vô minh dày đặc.



Thiện Quả Đào Văn Bình

(Trích sách Kinh Hạnh Phúc Của Tôi sắp xuất bản)

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/01/2018(Xem: 5126)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11372)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9554)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7804)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3817)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6374)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87499)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6652)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4898)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
01/11/2017(Xem: 4377)
Hôm nay ngày 1.11 tôi viết bài này chỉ nhằm kể một câu chuyện thực tế lịch sử; vì đâu, nguyên nhân, tôi xin miễn đào sâu vì cũng không có đủ hiểu biết, thời gian và cũng không phải mục đích tôi muốn chia sẻ ở đây! Ba mẹ tôi đều sinh ra và lớn lên tại Huế, học xong tú tài ở trường Khải Định năm 1955 (tên lúc bấy giờ của trường Quốc Học Huế). Giai đoạn đó đất nước vừa chia đôi, TT Ngô Đình Diệm vừa chấp chính. Ông Diệm xuất thân từ gia đình quan lại, bản thân ông cũng từng đỗ đạt ra làm thượng thư như cha của ông là Ngô Đình Khả, anh là Ngô Đình Khôi, nên rất trọng bằng cấp, học vấn như lối suy nghĩ của tầng lớp trí thức nho học thời bấy giờ. Vì vậy ông Diệm rất ưu tiên cho ngành giáo dục, đặc biệt trong giai đoạn sau 1954 khi người Pháp rời khỏi VN, cần xây dựng một nền giáo dục bản xứ thay thế cho nền giáo dục thuộc địa của Pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]