Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành Trình 10 Năm Ăn Ngày 1 Bữa, Trì Tụng Chú Đại Bi Và Tìm Cầu Học Thiền Vipassana Của Sư Cô Thích Nữ Giới Bảo

21/11/202218:58(Xem: 5649)
Hành Trình 10 Năm Ăn Ngày 1 Bữa, Trì Tụng Chú Đại Bi Và Tìm Cầu Học Thiền Vipassana Của Sư Cô Thích Nữ Giới Bảo


Duc The Ton-9

HÀNH  TRÌNH 10 NĂM ĂN NGÀY 1 BỮA, TRÌ TỤNG CHÚ ĐẠI BI
VÀ TÌM CẦU HỌC THIỀN VIPASSANA CỦA SƯ CÔ THÍCH NỮ GIỚI BẢO


Thích Nữ Giới Bảo (tự thuật)


Diễn đọc: Phật tử Diệu Danh





Kính thưa quý độc giả, một số học trò muốn được nghe lại câu chuyện tu học của mình nên hôm nay ngồi ôn lại một số hình ảnh của những năm tháng tìm cầu học đạo. Trong phần này, người viết chia sẽ kinh nghiệm tu học và một chặn đường dài của sự tôi luyện thân và tâm trong 10 năm kể từ năm 2004-2014.
 

Năm 2004, sau khi tốt nghiệp trung cấp Phật học tại Đà Nẵng, bản thân phát nguyện ăn ngày 1 bữa (chỉ dùng đúng Ngọ 12h trưa, trước và sau Ngọ sẽ không dùng bất kỳ thức ăn gì). Lúc đó, không ngoài tâm nguyện “Trên tìm cầu tu học Giáo Pháp giải thoát và trong tâm luôn hướng nghĩ đến sự giác ngộ của muôn loài” do vậy mà bản thân phát nguyện ăn ngày 1 buổi và chuyên tâm trì tụng Chú Đại Bi tiếng Phạn.

Đối với bản thân ăn ngày 1 bữa không thấy một khó khăn nào phát sanh. Nhưng đối với hoàn cảnh lúc đó cũng phải đối diện với khá nhiều sự thử thách. Vì mọi người đều lo cho sức khoẻ và ảnh hưởng đến việc học nên đều khuyên nhắc. Có một lần,  vì lo cho sức khoẻ và lo ảnh hưởng đến việc học của chúng con nên Sư Diệu Trạm trụ trì chùa Phổ Hiền đã dẫn lên chùa Từ Hiếu, T.p Huế để thưa thỉnh với Sư Ông Làng Mai (Sư Ông và chúng Làng Mai về thăm và tổ chức các khoá tu tại Việt Nam), về việc ăn ngày 1 buổi của bản thân. Lúc đó, tâm rất kiên định dù như thế nào vẫn không thay đổi nguyện lực của mình. May thay, Sư Ông đang chuẩn bị cho giờ Pháp Thoại nên Sư Diệu Trạm đưa về lại Chùa Phổ Hiền, T.p Huế.

Năm 2005, cơ duyên may mắn đậu vào trường Đại Học Phật Giáo tại Huế. Khi vào đại học phải chuyển sang ở nội trú, Sư Bà Diệu Lý (Sư Phụ) gửi ra Chùa Diệu Đức-Huế, ở đây đại chúng rất đông (200 vị). Nội quy nghiêm khắc, công phu bái sám luôn phải đúng thời khoá. Bản thân luôn nghiêm chỉnh tuân theo nội quy và thời khoá tu học của đại chúng. Ngoài thời gian đó, hầu như lúc nào cũng ở trên chánh điện và tại đơn để hành trì chú Đại Bi tiếng Phạn. Thần lực chú Đại Bi rất lớn, trong lúc trì Đại Bi bản thân cố gắng thể nhập vào thể tánh Chân Như nên công lực của Chú Đại Bi càng được phát huy. Qua một thời gian hành trì, bản thân cảm nhận được sự chuyển biến bên trong tâm thức mạnh; những tâm vội vàng, trạo cử và nóng giận được giảm thiểu rất nhiều, tâm Từ và Bi phát khởi lớn, luôn hướng nguyện đến sự giải thoát cho tất cả muôn loài.  Và tâm trí cũng được khai ngộ một phần giáo Pháp của Đức Thế Tôn. 
Cũng như mọi ngày, bản thân vẫn tu học và hành trì miên mật. Một hôm, vào lúc giữa khuya miệng đang lẩm nhẩm trì chú Đại Bi, nghe tiếng đoàn người bên ngoài la hét để cùng nhau kéo một vật gì đó có thể rất nặng. Trong tâm khởi lên ý nguyện; mong cho mọi người sớm kéo đẩy vật đó một cách nhẹ nhàng. Sau vài ba phút, nghe tiếng mọi người cười reo đã hoàn thành, trong lòng mình cũng nghe nhẹ nhõm. Lúc đó, gặp ai mình cũng muốn hướng họ trở về với con đường hạnh phúc này và dùng tất cả tâm lực, sức lực để thực hiện. Sau kỳ thi học kỳ, cùng đi với một sư Chị ra ngoài làng quê An Lỗ, T.p Huế thăm bà con ngoài đó. Vừa đến nhà của một gia đình Phật tử, thấy có một Chị khoảng chừng 45 tuổi đi không được 3 tháng nay vì bị té ngã. Với tình thương lớn, khi thấy Chị bị đau và đi đứng khó khăn. Không ngăn được dòng chảy của tình thương và muốn giúp chị. Lúc gọi Chị lại trò chuyện và hứa sẽ giúp Chị trong vòng vài hôm sẽ đi laị được. Lúc đó, đối trước Tam Bảo bản thân chỉ nương nhờ tha lực và chú tâm trì tụng chú Đại Bi vào ly nước, sau đó đưa Chị uống. Khoảng 3 lần như vậy, Chị đi lại bình thường và đạp xe đạp đến nơi để cảm ơn. Và bắt đầu Chị đã hướng đến Phật Pháp với niềm tin sâu sắc. Ở đây, bản thân chỉ muốn chia sẽ, khi tâm chúng ta có tình thương rộng lớn thì sẽ có thể xoa dịu được nhiều nỗi đau và sự khó khăn của nhau. 


Năm 2006, được giấy báo đậu Đại Học của trường Phật Giáo Yangon, Myanmar: International Theravada Buddhist Missionary University. Mỗi năm trường chiêu sinh 1 lần, 1 lần chỉ tuyển chọn 5 sinh viên. Đặc biệt trường Phật giáo này, các kỳ thi tuyển sinh được tổ chức khắp nơi trên thế giới, tu sĩ và cư sĩ đều được tham gia và xuất học bổng như nhau. Khi được chọn vào trường thì tất cả sinh viên được chu cấp mọi thứ, gọi là học bổng toàn phần. Khoá thi của năm 2006, tại Việt Nam có tổng cộng 45 tăng ni và cư sĩ  đăng ký dự thi nhưng chọn 5 sinh viên đạt điểm tiêu chuẩn của trường. Bản thân quyết định sang Myanmar du học. Giai đoạn đó làm giấy tờ thủ tục rất nhiêu khuê và chưa hình dung được tấm hộ chiếu làm như thế nào. Cũng nhờ sự động viên của Ba Mẹ, hai Ông Bà luôn sát cánh để yểm trợ mọi khó khăn. 

Được mọi người chia sẽ, Myanmar là một đất nước Phật giáo và đặc biệt các dòng thiền Vipassana và Samatha vẫn còn được bảo tồn nguyên chất. Đây cũng là một trong những nguyên do chính yếu để tham dự khoá thi tuyển sinh của Trường. Lúc đó, tiếng Anh mình chưa được khá nên theo học chương trình đại học cũng khó khăn bởi rào cản của ngôn ngữ. Kỳ đầu của năm thứ nhất, thành tích học tập chỉ trung bình. Bắt đầu sang kỳ thứ 2 trở đi đến cuối năm ra trường đạt được thành tích xuất sắc. Bản thân cũng đã nổ lực nhiều vừa theo kịp bài vở vừa không bỏ thời khoá tu tập nên có lúc một ngày chỉ ngủ 3 đến 4 giờ đồng hồ. Có những đêm học bài xong tiếp tục hành trì đến 2h khuya. 5h sáng thức dậy tiếp tục học bài và đến trường. Do ăn ngày 1 buổi nên mình không mất nhiều thời gian cho việc ăn uống trong ngày. Thời gian này, bản thân muốn tìm hiểu đến Thiền. Cuối tuần và các kỳ nghỉ dài mình đều sắp xếp vào các trường thiền để tu học về các pháp môn của mỗi trường thiền. Ban đầu mình vào trường thiền Pa auk trong rừng sâu, trường thiền này tu tập theo thiền Samatha (thiền định). Ở đây, nhiều người nước ngoài đến tu học có cả những vị tu sĩ và cư sĩ cùng tu tập với nhau. Mọi người tu tập thật chăm chỉ, các thiền sinh rất tinh tấn. Mỗi thời khoá hành thiền, có nhiều vị thiền sinh ngồi từ 4 đến 6 tiếng tuỳ theo mỗi hành giả. Nhưng đa phần mọi người tu tập nghiêm túc và miên mật. Có nhiều vị ở lại trường thiền từ 10 - 15 năm. Thật kính ngưỡng. 



thich nu gioi bao
Tác giả, Thích Nữ Giới Bảo tại Miến Điện





Tiếp tục cuộc hành trình tìm cầu học Pháp. Bản thân đã tìm hiểu dòng thiền chuyên về Vipassana đó là trường thiền Panditarama trong rừng sâu và trường thiền Sew ohmin. Ở đây, chuyên tu tập về Niệm Tâm, 1 trong 4 đề mục của Thiền Tứ Niệm Xứ. Mình rất thích hợp với phương pháp này. Vì từ trước đến nay, mình luôn thể nhập Thể Tánh (Tánh Không hay còn gọi là Bát Nhã tánh) cũng thuộc về tâm. Nên mình theo đuổi dòng thiền Vipassana đến bây giờ. Và mới đây, nhờ vào các buổi giảng về đề tài Tứ Niệm Xứ nên bản thân đã nghiên cứu kỹ và sâu hơn. Bất chợt, trong Pháp mình đã thấy Pháp, một lần nữa đã ngộ được giáo lý của Đức Thế Tôn qua bài kinh Tứ Niệm Xứ. 


Sẽ còn những hành trình tiếp theo của sự tu học người viết sẽ tiếp tục chia sẽ đến với độc giả.


sc gioi bao (1)

LẤY TỊNH CHẾ ĐỘNG

Và TỪ ĐỘNG TRỞ VỀ TỊNH 



Thích Nữ Giới Bảo (tự thuật)



Hôm nay 27/11/2022, như thường lệ mỗi chủ nhật mọi người cùng về dưới mái Chùa Việt Nam- Kanagawa thân thương để tu học và sinh hoạt.

Trước khi vào buổi lễ, nhìn xuống thiếu một vài học trò không lên chánh điện hành trì. Trong tâm có khởi lên vài câu hỏi; sao đến giờ rồi mà các con còn ở dưới? Công việc thì để sau thời khoá tu tập rồi tiếp tục. Chuyện Sanh tử là việc trọng đại nhất của đời người. Có tu tập thì mới biết con đường để đi ở kiếp này và kiếp kế tiếp được rõ hơn. Việc hành trì thật sự quan trọng lắm.

Nhưng lúc bắt đầu hướng dẫn mọi người hành thiền, bản thân đã nhiếp tâm vào hơi thở và ghi nhận tất cả mọi câu hỏi của mình đang có mặt. Không chạy theo những câu hỏi đó nữa và tiếp tục trụ tâm vào hơi thở. Chỉ sau vài cái hít vào và thở ra, tâm đã trở về với hơi thở thật nhẹ nhàng. Rồi tiếp tục thở đều và lan toả năng lượng bình an đến mọi người: “Hít vào, con nguyện đem năng lượng bình an này hướng đến tất cả. Thở ra, con nguyện cho muôn loài được an vui và giải thoát…” Đại chúng cùng toả năng lượng bình an và thanh tịnh cho nhau. Nương vào hơi thở và sự im lặng thánh thiện của đại chúng đã chế ngự được vọng tâm suy nghĩ của mỗi hành giả “Lấy tịnh chế động” là ở chỗ này. Lấy sự yên tĩnh của hơi thở để chế ngự cái vọng niệm lang thang bên trong của chúng ta.

Sau nửa tiếng hành thiền. Chư Tôn Đức tiếp tục hướng dẫn đại chúng tụng kinh Từ Bi Thuỷ Sám, đến đoạn:

“Đừng cho rằng trong đời này ta không gây tội, mà không ân cần cần Sám hối, vì trong Kinh nói: "Kẻ phàm phu mỗi khi động chân cất bước là đã có tội". Lại trong những đời quá khứ đã gây nên nhiều điều ác nghiệp, không thể kể xiết, nó thường theo ta như bóng theo hình. Nếu không, Sám hối thì tội ác càng ngày càng sâu. Sám hối các nghiệp chướng phiền não, vì những phiền não ấy đều do ý gây ra. Và khi ý nghiệp phát khởi, thì thân nghiệp, khẩu nghiệp, theo đó phát động. Ý nghiệp có tham lam, có giận dữ, có ngu muội. Bởi ngu muội mới sanh tà kiến mà gây lắm việc ác. Vì vậy Kinh nói: "Ba nghiệp tham, sân, si làm cho chúng sanh đọa lạc trong ba đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chịu khổ vô cùng. Nếu được làm người cũng phải chịu những ác báo phiền não: nghèo nàn, túng thiếu, côi cút, lại thêm tánh nết hung hăng, càn bướng, ngu độn, không biết phải quấy".
Ý nghiệp đã gây nhiều ác quả như thế, nên ngày nay chúng con dốc lòng đem hết thân mạng nương về chư Phật, cầu xin Sám hối.”

Tụng đến đây, tâm con thật chấn động và tỉnh người. Vì do mê muội không biết những lỗi lầm đã từng gây ra từ tâm tham giận và si mê. Nay con chí thành đảnh lễ sám hối và phát nguyện sẽ luôn sống trong tỉnh thức và tuệ giác. Lúc này đây, nương nhờ lời kinh tiếng mõ con đã thức tỉnh và trở về với tâm sâu lắng. “Từ động trở về tịnh” là ở ý này, nhờ lời đọc tụng kinh của đại chúng, hiểu rõ thâm sâu ý Phật dạy nên tâm đã được soi thấu và tĩnh lặng.

Nương nơi sự hướng dẫn của chư Tôn Đức chúng ta sẽ rõ được bản đồ của sự hành trì. Một thời tu tập cùng đại chúng mình sẽ nhận biết bao nhiêu là lợi lạc.

Công phu tu tập sẽ có nhiều phương pháp nhưng thiết nghĩ; không đi ngoài hai phạm trù này: nương tịnh mà chế động và nương động để chế tịnh. Dùng sự tĩnh lặng của thiền quán mà hướng tâm đến chánh niệm và định tâm. Và dùng những âm thanh của lời kinh kệ và mật chú sẽ soi thấy rõ tâm mình một cách rõ ràng làm cho tâm trở nên thông suốt mọi vấn đề.

Nguyện đem công đức này hướng về khắp tất cả, luôn đi trên con đường bình an và hạnh phúc này.




su co gioi bao 3


BUÔNG ĐI CHÍNH LÀ ĐƯỢC TẤT CẢ

Thích Nữ Giới Bảo



 

Trong cuộc sống có những thứ lưu giữ lại để làm nền tảng cho sự phấn đấu. Nhưng có những thứ lưu giữ lại khiến tâm trạng của chúng ta càng thêm lo lắng, buồn phiền hoặc rơi vào trạng thái tâm bị khủng hoảng. Để đạt được sự quân bình trong cuộc sống, chúng ta nên cân bằng tâm thức từ sự buông bỏ. Những thứ làm mình buồn phiền, lo âu, sợ hãi, ganh ghét… thì nên buông bỏ. Buông hết những thứ đó chúng ta sẽ nhận được điều tốt đẹp hơn; đó là một tâm hồn tự do và hạnh phúc. Người hiểu biết là người luôn biết tái tạo cho chính mình những năng lượng tươi mát và thảnh thơi. Hãy buông những điều không vui đi để tâm mình sẽ nhẹ nhàng và bình thản trở lại.

 

Chúng ta không nên ngộ nhận rằng sự buông bỏ là trạng thái nhu nhược, yếu đuối và thất bại. Ngược lại người biết buông bỏ hợp thời và đúng phương thức sẽ tạo cho chúng ta một tâm hồn thoải mái, thông suốt và mạnh mẽ. Đối với những chuyện đau buồn ở quá khứ, chúng ta không nên kéo dài tâm trạng của sự dằng xé và ray rứt mãi trong lòng. Đối với những vật hoặc hoàn cảnh hay thậm chí một người thân thương không còn ở bên cạnh chúng ta nữa thì cũng nên chấp nhận để buông bỏ. Những việc vượt quá khả năng hữu hạn của chúng ta thì hãy học cách bằng lòng và không tham cầu. Từ sự buông bỏ đó nó lại mở cho ta nhiều hướng đi và nhiều mục đích cao đẹp hơn.

 

Giữa đời sống thực tại, có nhiều người vì quá mong cầu, lưu luyến và bám chặt vào một đối tượng nào đó và chính những thứ đó đã xiết chặt lấy thân và tâm của họ. Nó chiếm ngự hết khối óc và tinh thần của họ khiến bản thân trở nên mệt mỏi và đau khổ. Lý do là trong tâm ta có một rào cản của sự tham cầu và ảo tưởng và chính rào cản đó làm cho sự lưu thông về tư tưởng của chúng ta bị nghẽn đọng lại. Sự sáng suốt, lòng thương yêu và sự hiểu biết đều có ở trong ta, nhưng tại vì ta có một cái rào cản ở trong tâm, khiến cho tuệ giác đó, tình thương đó, hiểu biết đó không biểu hiện ra được.

 

Trong chuyến về thăm Việt Nam vừa rồi, bản thân người viết đã chứng kiến một tình huống rất đáng thương. Một người bạn thời tiểu học, trong cuộc sống hôn nhân của cô ấy đang trên bờ vực thẳm nhưng vì quá yêu thương chồng muốn níu giữ cuộc hôn nhân này. Ngược lại, người chồng luôn hờ hững và lạnh nhạt với cô ấy. Một sáng mai thức dậy, người bạn phát hiện trên bàn khách có một tờ giấy ly hôn của chồng để lại. Người bạn đã ngất xỉu, tay chân run rẩy. Khi tỉnh dậy cô ấy lấy dao rạch vài đường ở cẳng chân mặc cho máu chảy dài, cô ấy có ý định tự tử. Người bạn đã gọi điện cho mình đến nhà. Bạn đã kể lại cho mình nghe về những nỗi buồn trong cuộc sống, về những áp lực căng thẳng trong gia đình. Chồng của cô ấy dạo này thường tỏ thái độ lạnh nhạt và cũng thường nghe nhiều thông tin về chồng mình có người thứ 3 bên ngoài. Cô ấy không tin, bình thường chồng của bạn chỉ biết công việc vì là giám đốc của 1 công ty lớn phải quản lý hàng trăm công nhân. Vẫn chu cấp kinh tế đầy đủ cho gia đình và thi thoảng có đưa cả gia đình đi chơi. Bạn đã rất yên tâm và không tin lời đồn đãi về chồng mình có bạn gái. Hôm đó, vô tình cô ấy đi công việc và ghé vào công ty thì thấy cảnh chồng và bạn gái đang vui đùa với nhau. Cô ấy đã làm ầm lên tại công ty, sau đó người chồng về nhà và đã quyết định viết đơn ly hôn. Người bạn buồn quá nên làm chuyện dại dột như vậy. Mà không riêng gì bạn, trong thời buổi này, rất nhiều người lâm vào tình cảnh như bạn ấy. Những năm gần đây, tỷ lệ người tự tử tăng rất nhanh có thể nói đến là Nhật Bản và Hàn Quốc. Và nguyên nhân tự sát là sự mất quân bình về tâm lý, đời sống gia đình đổ vỡ và sự tranh đấu trong các thị trường kinh tế…

 

Sự phân vân mất định hướng của bạn. Đối trước tình cảnh đau khổ đó, người bạn đã tư vấn mình làm sao để vượt qua được nỗi kinh hoàng này. Mình trả lời; bạn nên học cách chấp nhận và hãy thả lỏng cơ thể, để tâm hồn bạn lắng dịu trong từng hơi thở vào và ra. Đối với người chồng không còn tình cảm với bạn nữa thì hãy dừng níu kéo để cả hai được bình yên và nhẹ lòng. Còn đối với những việc không thể làm được, đừng tự trách bản thân mà hãy để nó lắng đọng trong quá khứ. Bắt đầu với cuộc sống mới với thời điểm hiện tại. Và hãy hướng tâm của bạn liên tục đến sự buông xả. Khi tâm của bạn luôn hướng đến đối tượng của sự buông xả thì sự vọng tâm phiền não không kéo bạn chìm sâu trong sự khổ đau nữa. Bên trong của mình sẽ được cân bằng và an vui hơn. Khi tâm của bạn chìm đắm vào người mình yêu thương, nó sẽ dễ bị kích động và tổn thương khi người đó không còn ở bên cạnh. Hầu như trong mỗi chúng ta đều biểu lộ như nhau khi xúc cảnh như vậy. Trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc, chúng ta thường tưởng nhầm sự bám víu của tâm với hạnh phúc thực sự. Nhưng nếu cứ mãi đắm chìm trong sự bám víu đó, thì chúng ta sẽ không bao giờ có cơ hội để trải nghiệm sự bình an nội tại và những niềm hạnh phúc lớn hơn nữa. “BUÔNG ĐI CHÍNH LÀ ĐƯỢC TẤT CẢ” bạn muốn được tất cả thì phải buông, việc gì làm mình đau khổ và tổn thương thì nên buông. Buông được những thứ đó rồi thì tâm hồn của mình sẽ được thanh thản, nhẹ nhàng hơn cuộc sống sẽ không bị ràng buộc bởi những lo âu, sợ hãi hay tinh thần bị rối loạn…. Và bạn sẽ hiểu rõ được sự thật về bản chất của cuộc đời là khổ như Đức Thế Tôn thường dạy; xa rời người mình thương là khổ (ái biệt ly khổ), đau khổ về điều mình mong muốn không được như ý (cầu bất đắc khổ), sự thật về lý nhân duyên và vô thường trong cuộc sống… từ đó bạn sẽ hướng đến con đường tuệ giác và tình thương mà Đức Phật đã từng chỉ dạy.

 

Một con đường đang mở cho bạn phía trước, nào bạn tôi ơi hãy mạnh mẽ buông bỏ nhé! Nếu bạn sắp xếp được thì nên thường xuyên tham dự các khoá tu thiền Vipassana ở các trung tâm Thiền viện tổ chức. Các khoá thiền Vipassana này là liều thuốc hữu hiệu để chữa trị những căn bệnh về tâm rất thiết thực và bổ ích. Người bạn đã bắt đầu tìm hiểu về phương pháp thiền và cũng đang thực tập hằng ngày.

 

Buông xả không phải là trạng thái bàng quan, lãnh đạm hay không quan tâm đến mọi thứ xung quanh, mà nó đơn giản chỉ là sự không thiên vị, không đặt nặng bất kỳ điều gì. Theo ngôn ngữ Pali, buông xả được dịch là upekkha  nghĩa là “xem qua” và “không bám vào đối tượng” chỉ cho đức tính buông xả hay sự quân bình của tâm. Với trạng thái tâm này, khi đối diện với ngoại cảnh; đó là một hình ảnh, một hoàn cảnh hay một nhân vật nào đó, bạn sẽ không loại bỏ những gì mình không ưu thích (sân) và bám víu, phát cuồng vì những gì mình ưu thích (tham). Tâm sẽ luôn quân bình và bằng lòng với tất cả những gì đang xãy ra. Khi tâm được cân bằng, thì chúng ta sẽ buông bỏ được những phạm trù của từng cặp đối xứng: vui buồn, mừng giận, ưu ghét, hơn thua, được mất, vinh nhục. Chúng ta nên hiểu rằng; cái quan trọng nhất là làm cho tâm mình thảnh thơi, ngoài ra không có pháp môn tu học nào mầu nhiệm hơn thế nữa.

 

Với ý nghĩa “Buông đi chính là được tất cả” này tương đồng với tinh thần Kim Cương của nhà Phật “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”; tâm không bám víu vào bất kỳ một đối tượng nào thì sẽ sanh ra một cái tâm kỳ diệu của sự bình an và tự do đúng nghĩa.

 










Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/01/2018(Xem: 5126)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11367)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9546)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7804)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3817)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6374)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87491)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6652)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4898)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
01/11/2017(Xem: 4377)
Hôm nay ngày 1.11 tôi viết bài này chỉ nhằm kể một câu chuyện thực tế lịch sử; vì đâu, nguyên nhân, tôi xin miễn đào sâu vì cũng không có đủ hiểu biết, thời gian và cũng không phải mục đích tôi muốn chia sẻ ở đây! Ba mẹ tôi đều sinh ra và lớn lên tại Huế, học xong tú tài ở trường Khải Định năm 1955 (tên lúc bấy giờ của trường Quốc Học Huế). Giai đoạn đó đất nước vừa chia đôi, TT Ngô Đình Diệm vừa chấp chính. Ông Diệm xuất thân từ gia đình quan lại, bản thân ông cũng từng đỗ đạt ra làm thượng thư như cha của ông là Ngô Đình Khả, anh là Ngô Đình Khôi, nên rất trọng bằng cấp, học vấn như lối suy nghĩ của tầng lớp trí thức nho học thời bấy giờ. Vì vậy ông Diệm rất ưu tiên cho ngành giáo dục, đặc biệt trong giai đoạn sau 1954 khi người Pháp rời khỏi VN, cần xây dựng một nền giáo dục bản xứ thay thế cho nền giáo dục thuộc địa của Pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]