Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

313. Thiền Sư Tức Lự & Cư Sĩ Ứng Thuận Vương (Đời thứ 14 & 15 , Thiền Phái Vô Ngôn Thông) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹

20/11/202110:57(Xem: 26667)
313. Thiền Sư Tức Lự & Cư Sĩ Ứng Thuận Vương (Đời thứ 14 & 15 , Thiền Phái Vô Ngôn Thông) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹
thich nguyen tang (1)thich nguyen tang (2)thich nguyen tang (6)thich nguyen tang (7)


311. Thiền Sư Thông Thiền (?-1228)

(Đời thứ 13, Thiền Phái Vô Ngôn Thông, đời Vua Trần Thái Tông)

🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️

Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Bài trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâm & Cư Sĩ Huệ Hương
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh ; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước-Quảng Tịnh

 

 

Nam Mô A Di Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Thứ Bảy, 20/11/2021 (16/10/Tân Sửu)chúng con được học về  Thiền Sư Tức Lự, đời thứ 14, Thiền Phái Vô Ngôn Thông và đệ tử của Ngài là Cư Sĩ Ứng Thuận, đời thứ15 Thiền Phái Vô Ngôn Thông, đây cũng là 2 vị cuối cùng của Thiền phái này ở Việt Nam. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 313 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).

  

Sư quê ở Chu Minh, lúc nhỏ thông minh đọc hết các sách thế tục. Một hôm, Sư bỏ hết sở học, theo làm đồ đệ Đại sĩ Thông Thiền thưa hỏi chỗ huyền yếu.

Thường đến ngày giải hạ Sư đặt bẫy, bắt được một con chim Mãi Quĩ đem về dâng cho thầy.

TS Thông Thiền kinh ngạc bảo:

- Ngươi đã làm Tăng, sao lại phạm tội sát sanh? Làm sao tránh khỏi quả báo ngày sau?

 

Sư Phụ giải thích:

 

- Đạo hiệu của Thiền Sư Tức Lự rất hay, Tức là bặt dứt, Lự là suy lường. Tức Lự là bặt dứt suy lường là điểm đến cuối cùng của thiền tông, là chỗ rốt ráo không còn suy nghĩ nữa, đó lá tánh biết lặng lẽ, rõ biết đại dụng hiện tiền.

 

- Sự ngộ đạo của Sư rất kỳ đặc trong lịch sử thiền tông. Sau ba tháng an cư kiết hạ, những đệ tử thường dâng cúng dường lễ vật cho sư phụ. Riêng Ngài thì chạy ra đồng giăng bẫy để bắt con chim Mãi Quĩ về cúng dường cho sư phụ Thông Thiền. Ngài Thông Thiền nhìn thấy “món đồ” cúng dường này, liên lên tiếng cảnh báo rằng: “Ngươi đã làm Tăng, sao lại phạm tội sát sanh? Làm sao tránh khỏi quả báo ngày sau? “

 

Sư phụ tán đồng và lời cảnh báo này của Thiền Sư Thông Thiền đã ngăn ngừa sát nghiệp để giúp chúng đệ tử không bị quả báo đau khổ về sau. Sư Phụ đã kể lại câu chuyện cổ tích về Trưởng lão Putigatta Tissa.

Ngài Tissa sống ở thành Xá Vệ, nghe Đức Phật thuyết pháp liền hướng tâm về đạo, xin được xuất gia vào Tăng đoàn, được gọi là Trưởng Lão Tissa.

Thời gian cuối đời ngài lâm bệnh nặng, mụn nhọt nổi lên khắp người, mụn nhọt lớn dần lên bằng hạt táo, vỡ ra lở loét, xương của ngài bắt đầu hư thối, không ai đến gần để chăm sóc ngài. Đức Phật quán sát, biết đệ tử Tissa sắp chứng quả A La Hán và không còn ai nương tựa ngoài Phật. Ngài nấu nước nóng tắm cho trưởng lão và nhờ các tỳ kheo giặt y cho trưởng lão rồi phơi khô để mặc vào cho trưởng lão. Sau đó, Đức Thế Tôn khai thị đệ tử rằng:“Này Tỳ Kheo Tissa,  thần thức sắp rời con, không bao lâu thân con sẽ thành vô dụng như khúc gỗ nằm lăn trên đất” và Đức Phật đọc bài kệ:

“Không bao lâu thân này,

Sẽ nằm dài trên đất,

Bị vất bỏ, vô thức,

Như khúc cây vô dụng”

(Kinh Pháp Cú số 41)

Nghe xong bài kệ, trưởng lão Putigatta Tisa liền chứng quả A La Hán và nhập vào vô dư Niết Bàn.

Đức Phật đã kể lại quá khứ của trưởng lão Tissa là người làm nghề bẫy chim trong thời của Đức Phật Ca Diếp. Khi bẫy được nhiều chim, ông bẻ chân và cánh để dồn một chỗ để hôm khác sau đem ra chợ bán.

Một hôm có một vị A La Hán khất thực, đang đi qua trước nhà ông. Ông liền phát thiện tâm cúng dường những món ăn thơm ngon vào bình bát của vị Thánh Tăng, đảnh lễ và thưa: “Bạch Tôn giả! Xin cho con được vào quả vị cao nhất mà Ngài đã chứng”.

Nhờ công Đức cúng dường này mà kiếp nay gặp được Phật Thích Ca, tu tập và chứng quả A La Hán.

 

Sư thưa:

- Con chính khi ấy không thấy có vật này, và cũng chẳng thấy có thân con, cũng chẳng biết có quả báo sát sanh, cho nên mới làm thế này.

TS Thông Thiền biết Sư là pháp khí bèn cho vào thất, mật truyền tâm ấn rằng:

- Ngươi nếu dùng đến chỗ đất ấy, dù có tạo tội ngũ nghịch, thất giá, cũng được thành Phật.

 

Có vị Tăng bên cạnh nghe trộm lời này, bèn kêu to rằng:

- Khổ thay, dù có việc thế ấy, tôi cũng chẳng nhận.

TS Thông Thiền lên tiếng bảo:

- Trộm! Trộm! Đâu nên, phi nhân sẽ gặp cơ hội tốt.

Sư nghe câu nói ấy liền lãnh ngộ.

 

Sư Phụ giải thích:

Câu nói của Ngài Tức Lự “Con chính khi ấy không thấy có vật này, và cũng chẳng thấy có thân con, cũng chẳng biết có quả báo sát sanh, cho nên mới làm thế này”, là biểu tỏ sự chứng đạt “ Tam Luân Thể Không ?

 

 Tam Luân Thể không có nghĩa là Thể của 3 Luân đều là Không. Luân là bánh xe; có chức năng lăn. Không là trạng thái tịch tĩnh, xa lìa các pháp tướng, là trạng thái không nhiễm đắm thế gian,  giữ tâm buông xả, xuất nhập tự tại.  

 

Tam luân, gồm có:
1/ Thân luân: còn gọi là “thần thông luân”: Đức Phật trước khi thuyết pháp, vận dụng thần thông, giúp cho chúng sanh có được chánh tín.

 

2/Khẩu luân: còn gọi là “chánh giáo luân”  nghĩa là lời Phật dạy giúp chúng sinh bỏ tà về chánh.

 

3/Ý luân; còn gọi là “ký tâm luân”: nghĩa là trước khi thuyết pháp, Phật dùng ý, quán sát căn tánh của chúng sinh, giảng pháp thích hợp, giúp người nghe được nhiều lợi lạc.

 

Thông thường chúng ta hay nghe nói “Ba điều không tịch” trong bố thí và cúng dường như sau:

 

1/Thí không: Người bố thí thấu rõ thân mình vốn không, đã biết thân ta là không thì không có tâm mong cầu phước báo.

 

2/Thọ không: Đã thấu suốt vốn không có người bố thí thì cũng không có người nhận sự bố thí, vì thế tự bản thân không sinh ý tưởng kiêu mạn.

 

3/Thí vật không: Vật tức là tiền bạc, của cải, vật báu... đã thấu suốt tất cả đều không thì tài vật dùng để bố thí cũng là không, do đó không sinh tâm tham lam hối tiếc.

 

Bố thí “Tam Luân không tịch” như trên thì mới gọi là bố-thí ba-la-mật. Trong kinh tạng Pali, tam luân không tịch về bố thí bao gồm: Hoan hỷ trước khi làm thiện, hoan hỷ đang khi làm thiện, hoan hỷ sau khi làm thiện.

 Sư Phụ nhắc lại câu chuyện do Hoà Thượng Tâm Thanh kể trong một bài giảng về một Hoà Thượng ở tỉnh Quảng Nam về trụ trì ngôi chùa làng, mỗi ngày ngài cùng 5 đệ tử  đi ra ngoài bẫy chim vì Hoà Thượng thấy người dân trong làng ai ai cũng làm nghề này, Hoà Thượng thấy đau lòng nhưng khuyên bảo họ không được, cuối cùng Hòa Thượng đành phải làm công việc giống như họ. Hoà Thượng dùng chim mồi hót hay nhất để trong lồng quyến rũ chim khác vào lồng. Hoà Thượng dùng dao dọa, kéo, la hét làm con chim dính bẫy sợ hãi, rồi mở lồng, chim bay hết, một lần rồi sợ điếng hồn, không để tự thân sụp bẫy nữa. Dạ bạch Sư Phụ, con  xúc động khi nghe câu chuyện này vì tấm lòng từ bi tế độ loài xúc sanh của Hoà Thượng, trong tiếng la hét và làm mọi thứ cho chim sợ hãi để không dính bẫy là sức chú nguyện từ bi lực của Hoà Thượng đã truyền đến cho loài chim khiến cho chúng được bình an mãi mãi về sau.

 

Sau Sư trở về chùa Thông Thánh, làng Chu Minh, phủ Thiên Đức trụ trì. Ở đây, Sư giảng dạy cho môn đồ tông chỉ Thiền tông. Có người học trò lanh lợi là cư sĩ Ứng Thuận kế thừa tông của Sư.

 

  

Cư sĩ Ứng Thuận Vương 

(Đời thứ 15, dòng Vô Ngôn Thông)

 

Ông tên Đỗ Văn, quê phường Hoa Thị, kinh đô Thăng Long. Tánh tình khoáng đạt không chịu đeo đuổi theo việc đời. Ban đầu làm chức quan trong triều Chiêu Lăng (Trần Thái Tông), đến hàng Trung phẩm Phụng ngự.

Khi rảnh việc, ông dốc chí học thiền, tay không rời kinh sách, sưu tầm cùng tận ý Tổ, thấu suốt Tâm tông. Ông làm đệ tử Thiền sư Tức Lự ở chùa Thông Thánh và thông suốt mật chỉ. Do đó, Thiền sư Tức Lự chẳng ngại đem tâm ấn trao truyền cho ông.

Sau khi đắc truyền, ông là người tai mắt trong tùng lâm, đồng loạt với Quốc sư Nhất Tông, Thiền sư Tiêu Dao, Thiền sư Giới Minh, Thiền sư Giới Viên ấy vậy.

 

Sư Phụ giải thích:

Cư sĩ Ứng Thuận Vương làm quan trong triều đại nhà Trần, vua Trần Thái Tông là vị vua đầu tiên của triều đại nhà Trần. 

Ngài là cư sĩ đặc biệt được thiền Sư Tức Lự truyền tâm ấn. 

Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là đệ tử đắc pháp của thiền sư Tiêu Dao.

Cư sĩ Bàng Long Uẩn là cư sĩ nổi tiếng đắc pháp bên Trung Hoa.

 

Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Tức Lự & Cư Sĩ Ứng Thuận Vương  do Thượng Tọa Chúc Hiền sáng tán cúng dường Ngài:

 

Thuở nhỏ siêng năng đọc sách đời
Thông minh đĩnh ngộ hướng thiền nôi
Xuất gia học đạo vui kinh kệ
Lạy Phật tham thiền giữ bản hoài
Khế ngộ tam luân đều vắng lặng
Thầm tri nhất thể thảy thường soi
Thông Thiền mật ý trao tâm ấn
Tức Lự hoằng dương xiển đạo ngời

Đạo ngời soi sáng mở gương tâm
Dẫn dắt môn nhân vượt khổ trầm
Hướng cội Bồ đề nương bến giác
Xây nhà trí tuệ dưỡng bờ an
Đêm ngày thanh thản soi nguồn đức
Năm tháng tiêu dao mở suối ân
Thông Thánh thiền môn chuông sớm vẳng
Tăng nhân thạch trụ sáng trăng rằm.

 

Ứng Thuận Cư Sĩ Hạnh

Tánh tình phóng khoáng hướng tâm thiền
Chẳng bận quan quyền quy Phật duyên
Dốc chí học thiền nghiên bối diệp
Quyết tâm tu Phật hướng thiền nguyên
Sưu tầm ý tổ thông nguồn diệu
Thấu suốt tâm tông tỏ mạch huyền
Tức Lự thiền sư trao ấn chứng
Vang danh một thuở xứng tâm truyền

 

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Thiền Sư Tức Lự. Đạo hiệu của Ngài nói lên sự ngộ đạo rất kỳ đặc do sự bặt dứt suy lường mà chứng đạt thể tánh tịnh minh, chân tâm thường trú, để rồi ngài lại có cách trình pháp kỳ lạ và hy hữu nhất xưa nay với lễ vật cúng dường Sư phụ một chim Mãi Quĩ để biểu diễn cái thấy “Tam Luân Thể Không” quá diệu kỳ.

 


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm

(Montréal, Canada).

 



313_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Tuc Lu
 



Thiền Sư Tức Lự (Đời thứ 14, Thiền Phái Vô Ngôn Thông)
& Cư Sĩ Ứng Thuận Vương, (Đời thứ 15, Thiền Phái Vô Ngôn Thông)


Kính dâng Thầy bài trình pháp về Hai truyền thừa cuối của Thiền phái Vô Ngôn Thông ? Kính bạch Thầy, bài pháp thoại quá tuyệt vời và sâu sắc mà khi vừa mới xem qua hành trạng quý Ngài con không thể hiểu được yếu nghĩa thâm sâu cho đến khi được nghe Thầy.


Thật là một đại duyên cho những ai ( người viết được vinh hạnh tham dự vào hội chúng ) có được diễm phúc nghe được đến bài pháp thoại thứ 313 của TT Nguyên Tạng trong số những bài phápthoại về Tổ Sư Thiền Ấn, Trung, và VN và đến hôm nay vào thế hệ truyền thừa cuối cùng của Thiền phái Vô Ngôn Thông để bước sang Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một thiền phái được xem là tiếp nối nhưng là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỷ 12 – đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi cùng với sự pha trộn ảnh hưởng của Tông Lâm Tế.


Nhìn lại những gì đã được truyền trao hẵn chúng ta đều nhận định được rằng :

Thiền phái Vô Ngôn Thông nhấn mạnh thuyết đốn ngộ chủ trương con người có thể, trong một giây lát, đạt được quả vị giác ngộ, khỏi cần đi qua nhiều giai đoạn tiệm tiến.

Kinh Viên Giác mà nhiều thiền sư trong thiền phái Vô Ngôn Thông (như Viên Chiếu, Tín Học, Tịnh Lực,...) rất chuyên trì được mô tả là một kinh dạy về phương pháp đốn ngộ. Kinh này có câu “Thiện nam tử, kinh này gọi là giáo lýđốn ngộ của đại thừa, những chúng sinh có đốn căn ở đây tức là có khả năng lớn về trí tuệ và hành đạo. Đối lại với đốn căn là tiệm căn, tức là căn trí của những kẻ phải đi từng bước một, trải qua nhiều kiếp tu hành mới dần dần chứng nhập được Phật quả. Kinh Viên Giác là một thiền định đại thừa.

Sau sđó về thuyết vô ngã và vô dắc dựa vào kinh Kim Cang Bát Nhã để chỉ rõ Đạo không phải cái gì xa xôi huyền diệu, chính là Tâm thể của chúng sanh. Nếu người nhận ra Tâm chân thật của chính mình, sự tu hành không sớm thì chầy cũng sẽ thành Phật. Tâm chân thật này cũng gọi là Tánh giác hay Phật tánh. Thấy được Tánh giác thì thành Phật không nghi, vì đã biết Phật nhân nhất định sẽ đến Phật quả. Chỉ cho người nhận được Bản tâm mình là chủ đích của Thiền tông.

Nói chung là làm sao phát huy được cái biết của mình, mà chúng sinh phàm phu khi mê có tới hai thứ biết.

Một thứ là “biết có lời” là cái biết người ta thường xuyên xử dụng suy nghĩ hằng ngày.

Đây là cái biết của vọng Đó là cái biết do học hỏi, do kinh nghiệm mà có. Những kinh nghiệm này được cất giữ trong ký ức, khi gặp cơ hội thì nó trồi lên tạo thành cái biết của quá khứ, định danh liền cho đối tượng. Cái biết trong hiện tại là cái biết của ý thức, khi đối diện với đối tượng trước mặt là nó biết phân biệt, so sánh đưa đến cảm thọ thích hay không thích, dẫn đến tưởng tượng những chuyện chưa xảy ra. Tất cả những cái biết này do bản ngã tức “cái Ta” làm chủ.

Kinh Kim Cang gọi đó là cái biết của “tâm ba thời”. Tâm ba thời là tâm quá khứ, hiện tại, vị lai. Tóm lại, cái biết này không hoàn toàn chính xác vì nó lấy tin tức từ cái biết quá khứ để so sánh phân biệt rồi đưa đến suy luận viễn vong về đối tượng nên bị xem là cái biết của Vọng tâm, gọi là Tướng biết.

Và ....

Một thứ biết khác là “biết không lời” ai cũng có. Đó là cái biết lặng lẽ, chân thật, đối tượng như thế nào biết như thế đó. Đây là cái biết của người tu tập, bước được vào dòng Thánh, là cái biết của Chân tâm, gọi là Tánh Giác


Học đến Thiền Sư Tức Lự chúng ta đã thấy Ngài được minh sư Thông Thiền ban pháp hiệu để chỉ cho cái biết lặng lẽ này và cũng không quên tri ân Ngài đã cảnh báo về giới sát sanh cho tất cả mọi người qua lời khiển trách Thiền sư Tức Lự

(Thông Thiền kinh ngạc bảo:

- Ngươi đã làm Tăng, sao lại phạm tội sát sanh? Làm sao tránh khỏi quả báo ngày sau?)

Chúng ta đã học về giới ra hai loại giới: Hiển và mật. Mười hiển giới này có giá trị như nhau cho tăng, ni và cư sĩ (ngoài giới thứ 3), được ghi lại trong kinh Phạm võng (sa. brahmajālasūtra):

Không sát sinh;
Không lấy những gì người ta không cho;
Không tà dâm;
Không nói dối;
Không mua bán rượu;
Không nói về hành động xấu của người khác;
Không tự khen mình, chê người;
Sẵn lòng bố thí;
Không giận hờn;
Không phỉ báng Tam bảo.
Mười hiển giới nêu trên rất quan trọng, có ích về khía cạnh đạo lý thế gian và cả khía cạnh cơ sở của một cuộc đời hành đạo xuất thế.

Kính trân trọng tri ân Giảng Sư Thích Nguyên Tạng đã đùng tích sử trong kệ cú 41 của kinh Pháp Cú trong bài pháp thoại này do nguyên nhân nhiều kiếp phạm giới sát sanh

"Không bao lâu thân này,

Sẽ nằm dài trên đất,

Bị vất bỏ, vô thức,

Như khúc cây vô dụng." (Pháp Cú 41)

Kính trân trọng,


Kính ngưỡng Thiền Sư Tức Lự ...đạo hiệu diệu nghĩa (1)

Bặt dứt suy nghĩ ... cái biết của chân tâm

Điểm đến rốt ráo cuối cùng của Thiền Tông (2)

Tam Luân Thể Không thấu được huyền yếu (3)


Ngày giải hạ ...chim lạ Mã Quĩ dâng biếu (4)

Lời ấn chứng ... kỳ đặc của Sư Phụ Thông Thiền (5)

Kính đa tạ Giảng Sư ...

...Tánh giới , giá giới luật nghiêm (6)

Và ý nghĩa về chức danh Hoà Thượng (7)


Ôn nhắc Phật Giáo Quảng Nam Tứ Long Tượng (8)

Mượn câu chuyện trong pháp thoại HT Thích Tâm Thanh (9)

Và đại nguyện 18 “ Thập nguyện tất sanh ‘ (10)

Chùa Thông Thánh, nơi truyền dạy Thiền Tông yếu chỉ (11)

Đệ tử nối pháp ỨNG THUẬN VƯƠNG Cư sĩ (12)

Thế hệ cuối Thiền phái Vô Ngôn Thông (13)

Kính tri ân Giảng Sư ... nguyện rõ suốt tam luân (14)

Trong niêm ân Đức Phật ... Đấng Thiện Thệ mới có !

Nam Mô Thiền Sư Tức Lự tác đại chứng minh.


Huệ Hương

Sydney 20/11/2021

thich nguyen tang (3)thich nguyen tang (4)thich nguyen tang (5)thich nguyen tang (8)thich nguyen tang (9)thich nguyen tang (10)thich nguyen tang (11)





Chú thích :

(1) TỨC có nghĩa là Bặt dứt

LỰ ...là suy nghĩ


Sư quê ở Chu Minh, lúc nhỏ thông minh đọc hết các sách thế tục. Một hôm, Sư bỏ hết sở học, theo làm đồ đệ Đại sĩ Thông Thiền thưa hỏi chỗ huyền yếu.

Đây là chỗ đến rốt ráo của Phật Pháp mà Ngài Thông Thiền lãhh hội

"Phật pháp theo nghĩa rốt ráo không phải là giáo lý của Đức Phật, mà Phật pháp ở đây chính là chỗ lặng lẽ của viên mãn, của thể tánh tịnh minh, chân tâm thường trú của hành giả, vô sở đắc, vô sở chứng. Phật Pháp không phải là “pháp biết” vì cái biết thông thường theo thế gian là cái biết của vọng tưởng"

(2" Thiền Tông chủ trương " chẳng lập văn tự, truyền ngoài giáo lý”.

. Nếu có pháp truyền ngoài kinh điển, đó là pháp ngoại đạo, đâu phải Phật giáo. Vì kinh điển là tấm bản đồ vẽ đường đi đến khó tàng Tâm Vì thế câu “chẳng lập văn tự, truyền ngoài giáo lý” mang sẵn tính chất trị bệnh và đầy đủ tinh thần chỉ bày sự thật. Thiền tông cốt chỉ cho chúng ta thấy đạo qua mọi phương tiện, đừng mắc kẹt phương tiện mà quên đạo.

Chính vì thế, nên nói “chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Đạo không phải cái gì xa xôi huyền diệu, chính là Tâm thể của chúng sanh. Nếu người nhận ra Tâm chân thật của chính mình, sự tu hành không sớm thì chầy cũng sẽ thành Phật. Tâm chân thật này cũng gọi là Tánh giác hay Phật tánh. Thấy được Tánh giác thì thành Phật không nghi, vì đã biết Phật nhân nhất định sẽ đến Phật quả. Chỉ cho người nhận được Bản tâm mình là chủ đích của Thiền tông.


(3)

Không các tướng là “Không”. Không khởi diệt là “tịch”. Rỗng rang xa lìa tất cả tướng, không tâm niệm khởi diệt gọi là hạnh “không tịch”. Cảnh giới không có bất cứ tướng trạng nào, không có sinh ra và mất đi, không có sai biệt đối lập, vượt thoát thời gian không gian. Đây là nhận thức hoặc thể nghiệm về chân tướng sự vật của người giác ngộ.

Tam Luân Thể Không Tức là khi thực hành pháp bố thí, Bồ tát phải thấu suốt thể của người bố thí, người nhận sự bố thí và vật dùng để bố thí đều là không để phá trừ tướng chấp trước. 1. Thí không: Người bố thí thấu rõ thân mình vốn không, đã biết thân ta là không thì không có tâm mong cầu phúc báo.2. Thụ không: Đã thấu suốt vốn không có người bố thí thì cũng chẳng có người nhận sự bố thí, vì thế không sinh ý tưởng kiêu mạn. 3. Thí vật không: Vật tức là tiền bạc, của cải, vật báu... đã thấu suốt tất cả đều không thì tài vật dùng để bố thí cũng là không, do đó không sinh tâm tham lam hối tiếc. [X. Năng đoạn kim cương bát nhã ba la mật đa kinh thích Q.thượng]. (xt. Tam Luân Tướng). TAM LUÂN TƯỚNG Ba tướng luân. Chỉ cho người bố thí, người nhận sự bố thí và vật để bố thí. Tướng Tam luân tồn tại trong ý tưởng gọi là Hữu tướng tam luân. Diệt Tam luân này, trụ nơi vô tâm mà thực hành pháp bố thí thì đó là Thí ba la mật tam luân thanh tịnh. Theo Kim cương bát nhã ba la mật kinh chú giải, người đời làm việc bố thí tâm mong cầu quả báo, đó là trước tướng; nhưng Bồ tát tu hành bố thí thì thấu suốt Tam luân thể không, nên không chấp tướng. Pháp giới thứ đệ quyển hạ (Đại 46, 686 trung) nói:Nếu khi thực hành bố thí mà thấy người thí, người nhận và vật thí đều là không, bất khả đắc, thì vào được Thực tướng chính quán. Cho nên Tam luân tướng có chia ra thô và tế. Tự thân người bố thí khởi tâm kiêu mạn, đối với người nhận sự bố thí thì có ý nghĩ yêu ghét, đối với vật bố thí thì sinh tâm hối tiếc, đó là Tam luân tướng thô, chưa đạt được lí vạn pháp như huyễn. Còn người chấp thực ngã, thực pháp mà bố thí thì là Tam luân tướng tế. [X. kinh Đại bát nhã ba la mật Q.192]. (xt. Tam Luân Thể Không).


(4) (5)

Thường đến ngày giải hạ Sư đặt bẫy, bắt được một con chim Mãi Quĩ đem về dâng cho thầy.

Thông Thiền kinh ngạc bảo:

- Ngươi đã làm Tăng, sao lại phạm tội sát sanh? Làm sao tránh khỏi quả báo ngày sau?

Sư thưa:

- Con chính khi ấy chẳng thấy có vật này, và cũng chẳng thấy có thân con, cũng chẳng biết có quả báo sát sanh, cho nên mới làm thế này.

Thông Thiền biết Sư là pháp khí bèn cho vào thất, mật truyền tâm ấn rằng:

- Ngươi nếu dùng đến chỗ đất ấy, dù có tạo tội ngũ nghịch, thất giá, cũng được thành Phật.

(6)

Giới gồm có Tính giới và giá giới.

Tính giới cũng còn gọi là Cựu giới, Chủ giới, Tính trọng giới. Giới này bản chất là tội ác như Giết hại, trộm cướp, tà dâm và vọng ngữ.

Tánh Giới là giới của chính tự tánh, ví như tự tánh của sát, đạo, dâm là giới không đợi Phật chế mới có giới nên gọi là tánh giác

Dù có quy y hay không vẫn bị nhân quả nghiệp báo

Giá giới cũng gọi là Tân giới, khách giới,tức Thế cơ hiềm giới, ly ác giới. Giới này bản chất không phải là tội ác, không nằm trong bốn giới nặng như trên…


(7) Hòa thượng là nơi phát sanh đạo lực,là sửa đổi cho đệ tử có phẩm hạnh chân chánh,(Biết có tội, biết không có tội, la rầy kích phát đó gọi là Thầy ta. Noi theo thiện pháp mà dạy dỗ,) Ngài Nghĩa Tịnh gọi là: “Ổ Ba Đà Da, Trung Hoa dịch là Thân Giáo Sư, do vì vị này hay dạy hạnh nghiệp xuất thế. Cho nên Hòa thượng có hai kiểu:

1. Thân giáo: Tức là Thầy dạy học.

2. Y chỉ: Tức là Thầy mà mình nương theo để học vậy”.


(8) Tứ trụ Phật Giáo Quảng Nam : 1- HT Như Vạn -2- HT Long Trí 3- HT Chơn Phát 4- Như Huệ


(9) HT Thích Tâm Thanh là sư huynh của HT Thích Như Điển và là đệ tử của HT Long Trí một đại giảng sư của đất Đại Ninh / VN có kể về chuyện HT muốn giáo hoá Đạo lý cho một làng chuyên nghề bẩy chim mà phải dùng độc trị độc , Ngài đã cùng đồ đệ săn hết chim trong làng và chỉ dạy cho chim rời xa chốn ấy không bao giờ dám trỏ lại nơi cũ .


(10) Nguyện thứ 18: THẬP NIỆM TÂT SANH

Lúc tôi thành Phật thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, (trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp), thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

Nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ đề tâm tu các công đức nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nều tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.


(11)

Sau Sư trở về chùa Thông Thánh làng Chu Minh, phủ Thiên Đức trụ trì. Ở đây, Sư giảng dạy cho môn đồ tông chỉ Thiền tông. Có người học trò lanh lợi là cư sĩ Ứng Thuận kế thừa tông của Sư.


(12) Cư Sĩ Ứng Thuận Vương

Ông tên Đỗ Văn, quê phường Hoa Thị, kinh đô Thăng Long. Tánh tình khoáng đạt không chịu đeo đuổi theo việc đời. Ban đầu làm chức quan trong triều Chiêu Lăng (Trần Thái Tông), đến hàng Trung phẩm Phụng ngự.

Khi rảnh việc, ông dốc chí học thiền, tay không rời kinh sách, sưu tầm cùng tận ý Tổ, thấu suốt tâm tông. Ông làm đệ tử Thiền sư Tức Lự ở chùa Thông Thánh và thông suốt mật chỉ. Do đó, Thiền sư Tức Lự chẳng ngại đem tâm ấn trao truyền cho ông.

Sau khi đắc truyền, ông là người tai mắt trong tùng lâm, đồng loạt với Quốc sư Nhất Tông, Thiền sư Tiêu Dao, Thiền sư Giới Minh, Thiền sư Giới Viên ấy vậy.


( 13)..... những thế hệ cuối của thiền phái Vô Ngôn Thông :

Thế hệ 12. Thường Chiếu ( mất 1230)và sáu người khuyết lục trong đó có thể có Thiền sư Trí Thông mà thiền Sư Hiện Quang đến thọ cụ túc sau khi Thường Chiếu mất

Thế hệ 13. Thông Thiền (mất 1228) Thần Nghi (mất 1221) và ba người khuyết lục

Thế hệ 14. Tức Lự ( ỉ mất ?) Hiện Quang ( mất 1221) và ba người khuyết lục trong đó có thể có Ấn Không đệ tử của Thần Nhi

Thế hệ 15. Ứng Vương (mất ?) và sáu người khuyết lục trong đó có thể có Đạo Viên là đệ tử của Hiện Quang

Thế hệ 16. Tiêu Diêu (mất ?) Giới Minh ( mất ?) Giới Viên ( mất ?) Nhất Tông Quốc Sư ( mất ?)


(14) Đức Thế Tôn tuỳ thời thuyết pháp chân lý chắc chắn đem lại sự lợi ích cho chúng sinh, nếu không đem lại lợi ích, thì Đức Thế Tôn không thuyết pháp.

Đức Thế Tôn biết rõ 6 trường hợp, trường hợp nào nên thuyết giảng và trường hợp nào không nên thuyết giảng như sau:

Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.

Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.

Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, nhưng không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.

Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.

Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài biết tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.

Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài biết tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.

Do đó, Đức Thế Tôn có Ân đức Sugato với ý nghĩa thuyết pháp chân lý đem lại sự lợi ích cho chúng sinh.

Ân đức Sugato có 4 ý nghĩa tóm tắt này, đặc biệt đáng ghi nhớ ý nghĩa đức Sugato thuyết pháp chân lý đem lại lợi ích cho chúng sinh.


Điều này nằm trong Tam luân mà chỉ có Đức Phật mới đạt được :

1- Thân Luân = thần thông luân

2- Khẩu Luân = Chánh giáo luân = Lời dạy của Đức Thế Tôn

3- Ý Luân = Ý, Tâm Luân Đúc Phật trước khi giảng pháp đã quán sát căn cơ trình độ của chúng sinh


🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

thieu lam tu

Trở về Mục Lục Bài giảng của

TT Nguyên Tạng về Chư Vị Thiền Sư Trung Hoa

🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
facebook

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2022(Xem: 6975)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 17836)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5237)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5483)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6189)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5094)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4107)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5349)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3894)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3013)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567