Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Trường Nguyên (1110 - 1165) Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông (thời Vua Lý Anh Tông) 🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌸

23/10/202109:44(Xem: 18244)
Thiền Sư Trường Nguyên (1110 - 1165) Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông (thời Vua Lý Anh Tông) 🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌸

Thiền Sư Trường Nguyên (1110 - 1165)
Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông
(thời Vua Lý Anh Tông)

🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Bài trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâm & Cư Sĩ Huệ Hương
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh ; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước






Nam Mô A Di Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Thứ Bảy, 20/10/2021 (19/09/Tân Sửu)chúng con được học về Trường Nguyên (1110 - 1165) đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 301 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).

 

 

Sư họ Phan, quê ở Trường Nguyên, Tiên Du, dòng dõi theo Phật. Khi mới xuất gia thọ giáo với Thiền sư Đạo Huệ. Sau khi được Thiền Sư Đạo Huệ ấn chứng, Sư đi thẳng vào núi Từ Sơn ẩn tích. Ở đây, hàng ngày Sư mặc áo cỏ, ăn trái dẻ, làm bạn cùng suối, đá, khỉ, vượn. Suốt mười hai giờ, Sư nhồi nặn thân tâm lặng lẽ thành một mảnh. Trải qua năm, sáu năm, người đời không ai xem thấy được chỗ ảnh hưởng của Sư.

 

Sư Phụ giải thích:

- Thiền Sư Trường Nguyên là đệ tử nối pháp của thiền sư Đạo Huệ. Trường Nguyên là tên địa danh nơi quê của Sư ở. Tiên Du là tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

- Đệ tử nối pháp của thiền sư Đạo Huệ ngoài thiền sư Trường Nguyên còn có: thiền sư Tịnh Không, thiền sư Đại Xả, thiền sư Tịnh Lực, thiền sư Trí Bảo, thiền sư Nguyên Học.

- Sau khi đắc pháp, Sư vào núi Từ Sơn ẩn tích, hằng ngày chỉ ăn hạt dẻ, uống nước suối. Từ Sơn là một danh lam thắng cảnh, đời sống của Sư thật tuyệt vời, hạt dẻ cho dinh dưỡng rất tốt nhờ chứa nhiều vitamin C, chất đạm và những khoáng chất giúp cho cơ thể chống chọi các bệnh tật.

- Mỗi ngày Sư ngồi thiền mười hai giờ liền để thanh lọc thân tâm và cũng để làm gương cho hàng đệ tử về hạnh đầu đà và kiên trì tinh tấn tu tập trên núi ròng rả sáu năm dài.

 

Vua Lý Anh Tông nghe tiếng ái mộ, muốn gặp Sư mà không thể được. Vua thầm sai Phiên thần họ Lê là bạn cũ của Sư khéo dẫn dụ về triều. Họ Lê dụ được Sư về đến nhà trọ chùa Hương Sát. Sư tự hối hận, liền trốn trở về núi xưa. 

 

Sư Phụ giải thích:

- Công hạnh tu của Sư vang đến kinh thành. Vua Lý Anh Tông muốn mời Sư về triều mà không thể được. Vua sai đại thần họ Lê là bạn cũ của Sư dụ được Sư về đến chùa Hương Sát trong kinh thành.

Sau khi đàm đạo, cuối cùng vị đại thần nói thiệt. Sư hối hận, đêm khuya, Sư trốn trở về chốn u tịch của núi rừng.

 

 

Sư bảo đồ đệ:

- Hạng người thân khô tâm nguội như ta, không phải những vật phù ngụy thế gian có thể cám dỗ được. Bởi vì chí, hạnh của ta chưa thuần nên bị các thứ bẫy lồng vây khốn. 

 

Sư Phụ giải thích:

- Sư khiêm hạ tự nhận là chí hạnh của bản thân chưa thuần  nên bị vướng bẫy của người bạn họ Lê đưa ra khỏi núi, ngay khi tỉnh thức Sư nhận diện hạng người thân khô, tâm nguội như Sư thì những vật phù ngụy thế gian không thể cám dỗ Sư được.

- Thiền Sư Trường Nguyên với hạnh nguyện thoát ly sanh tử nên ngài quyết liệt chặt đứt mối họa của vòng lợi danh phù du huyền ảo của thế gian, có thể quyết định tu tập để chứng ngộ giải thoát sanh tử quan trọng hơn là dấn thấn nhập thế giúp đời cứu độ chúng sanh, vì bản thân chưa giải thoát thì lấy gì để giúp cho đời ? không giác ngộ giải thoát thì không khéo sẽ bị lợi danh cuộc đời nhấn chìm, sẽ phí phạm một đời làm thân người của ngài, cũng có thể quyết định thoát ly này cũng là một tấm gương sáng cho đệ tử noi theo.

  

Nghe ta nói kệ đây:

Viên hầu bão tử qui thanh chướng,
Tự cổ Thánh Hiền một khả lượng.
Xuân lai oanh chuyển bách hoa thâm,
Thu chí cúc khai một mô dạng.

 

HT Thanh Từ dịch:

 

Khỉ vượn bồng con lại núi xanh,
Từ xưa Hiền Thánh không mối manh.
Xuân về oanh hót trong vườn uyển,
Thu đến cúc cười mất dáng hình.

 

Sư Phụ giải thích:

- Khỉ vượn bồng con lại núi xanh,

Loài khỉ vượn nương náu yên vui nơi chốn núi rừng và cũng là bạn thân của Sư trong sáu năm.

- Từ xưa Hiền Thánh không mối manh.

Từ xưa nay, trong Hiền Thánh không có chỗ tìm dấu tích.

- Xuân về oanh hót trong vườn uyển,

Thu đến cúc cười mất dáng hình.

Thiền sư không bị cảnh buồn vui của thế gian bám dính cũng như “Thu đến cúc cười mất dáng hình”

 

Sư Phụ kể giai thoại của Thiền Sư Hương Hải (1627-1715) trả lời cho vua Lê Dụ Tông thuộc thời Hậu Lê khi vua hỏi về “thâm ý của Phật Tổ là gì”, Thiền Sư Hương Hải đọc lại 4 câu kệ của Thiền Sư Thiên Y Nghĩa Hoài (993-1064) thuộc đời nhà Tống bên Trung Hoa

Nhạn quá trường không

Ảnh trầm hàn thủy

 Nhạn vô di tung chi ý

Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

 

Nghĩa là:

“Nhạn bay trên không 

Bóng chìm đáy nước.

Nhạn không Ý để dấu

Nước không Tâm lưu bóng”

 

Hoặc bản dịch của Hoàng Nguyên Chương:

Nhạn bay qua mãi tầng không

Bóng chìm đáy nước một dòng lạnh trôi.

Nhạn không để dấu mình soi

Nước không lưu ảnh nhạn rơi vào lòng.

 

 

Sư Phụ giải thích yếu nghĩa của bốn câu kệ:

Nhạn là hiện thực, bóng nhạn dưới nước chỉ là ảo ảnh, không thực, khi nhạn bay qua, bóng nhạn dưới nước biến mất, vì nước không lưu lại dấu tích và khoảng trời không chỉ còn là bầu trời xanh, cũng không có dấu hình gì của con nhạn.

Nước biểu trưng cho chân tâm Phật tánh của chúng sanh. Thâm ý của Phật Tổ như Nước không lưu dấu con nhạn bay qua, tâm thức của hành giả mỗi ngày đều có 7 con nhạn: Mừng-Giận-Thương-Sợ-Yêu-Ghét-Muốn bay qua bay lại nhưng đừng để nó lưu lại dấu tích nào trên tâm thức, cũng bầu trời xanh luôn rực sáng không lưu lại một dấu tích nào.

 

Sư thường bảo mọi người:

- Lạ thay! Lạ thay! Tại sao các chúng sanh này có đủ trí tuệ Như Lai, mà ngu si mê hoặc chẳng thấy chẳng biết. Ta thường đem đạo lý dạy dỗ, khiến họ lìa hẳn vọng tưởng chấp trước trong tự thân, mà thấy trí tuệ rộng lớn Như Lai của mình, được lợi ích an lạc.

 

Sư Phụ giải thích:

- Thiền Sư Trường Nguyên nhắc lại lời trên của Đức Thế Tôn dạy trong kinh Hoa Nghiêm, rằng tất cả chúng sanh đều có đủ trí tuệ Như Lai đức tướng, nhưng tự thân không nhận ra.

 

- Kinh Thắng Man nói đây là Thanh Tịnh Pháp Thân. Chúng sanh vì không có công đức trang nghiêm nên Pháp thân không thể hiển lộ. Pháp thân là tự tánh thanh tịnh, là Chân tâm Phật tánh hằng có trong tất cả chúng sanh. Muốn pháp thân hiển bày thì phải có đủ công đức trang nghiêm ngang qua hành lục độ vạn hạnh hay áp dụng thiền chỉ, thiền quán và thiền na.

- Hành giả muốn vãng sanh về cõi tịnh độ của Đức Phật A Di Đà thì phải trước phải tự trang nghiêm bản thân mình. Kinh Duy Ma Cật nói: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”, có nghĩa là “khi nào tâm mình thanh tịnh thì cõi Phật sẽ thanh tịnh”.

 

-Chơn tâm, Phật tánh, Như Lai Tạng, Phật tri kiến là những từ khác nhau những đồng nghĩa là cùng chỉ cho trí tuệ Như Lai đức tướng của chúng sanh, đó là hạt châu trong chéo áo của người cùng tử mà Kinh Pháp Hoa hay ví dụ, nó luôn thường hằng lặng lẽ  nhưng bị che lấp bởi vô minh tham ái. Dùng công đức tu tập giúp loại bỏ vô minh, tham ái, phiền não thì hạt châu Pháp thân sẽ hiển lộ.

Sư phụ nhắc thêm về Phật tri kiến trong Kinh Pháp Hoa: tri là Biết,  kiến là Thấy, Phật là lẽ Thật. Phật tri kiến là Thấy Biết như Thật. Thấy biết như thật là cái thấy viên mãn, cái thấy không còn có hai bên, khác với cái thấy thường ngày của chúng sanh, lúc nào cái thấy của chúng ta cũng xoay quanh: có không, phải trái, thiện ác, thương ghét.v.v….v.v…. ngày nào có cái thấy hai bên là còn đối đãi, còn đối đãi là còn thị phi, còn thị phi là còn tranh chấp rồi dẫn đến khổ đau, sanh tử luân hồi. Vượt qua đối đãi là vượt qua nhị biên, hành giả sẽ bước vào cửa bất nhị, đó chính là  Niết Bàn, vô sanh bất tử. “Trong cái thấy chỉ có cái thấy” là chìa khoá vàng vào cửa bất nhị.

 

Đến ngày 7 tháng 6 niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ ba (1165, thời vua Lý Anh Tông), Sư có chút bệnh, nói kệ dạy chúng:

Tại quang tại trần,
Thường ly quang trần,
Tâm phủ trừng triệt,
Dữ vật vô thân.
Thể ư tự nhiên,
Ứng vật vô ngân,
Tông tượng nhị nghi,
Đào thải nhân luân.
Đình độc vạn vật,
Dữ vật vi xuân,
Tác vũ thiết nữ,
Đả cổ mộc nhân.

 

 

Ở chỗ bóng trần,
Thường lìa bóng trần,
Tâm phủ lóng tột,
Cùng vật không thân.
Thể vốn tự nhiên,
Hiện vật không thiên,
Tài bằng trời đất,
Vượt cả nhân luân.
Dưỡng nuôi muôn vật,
Cùng vật làm xuân,
Đứng múa gái sắt,
Đánh trống người cây.

Nói kệ xong, Sư viên tịch, thọ năm mươi sáu tuổi.

 

Sư Phụ giải thích:

- Ở chỗ bóng trần 

Thường lìa bóng trần

Bóng trần là chỗ ánh sáng chiếu qua khe cửa thấy bụi trong ánh sáng cũng như những phiền não nhiễm ô thường xuất hiện trong tâm, phải nhờ trí tuệ giúp lìa những phiền não nhiễm ô này.

-Tâm phủ lóng tột

Cùng vật không thân

Tâm phủ trùm lên cả trời đất.

- Thể vốn tự nhiên 

Hiện vật không thiếu

Tâm thể luôn sẵn có không tỳ vết.

- Đứng múa gái sắt

Đánh trống người cây

 

Sư Phụ giải thích, cô gái bằng sắt, người bằng gỗ tuy bất động nhưng làm thật nhiều, không có chuyện gì mà không làm được là: nhờ từ trí tuệ Ba la mật lưu xuất ra.

Nghĩa thứ 2 nhưng quan trọng của thiền ngữ “cô gái bằng sắt đứng múa và người gỗ đánh trống” là cái không thật có trên đời, thiền sư nói ra để giúp cho hành giả bặt dứt vọng tưởng suy lường, vì còn khởi nghĩ để suy lường là còn phiền não.

 

Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Trường Nguyên do Thượng Tọa Chúc Hiền sáng tán cúng dường Ngài:

 

Xuất gia học đạo hướng chân miền
Đạo Huệ thầm trao ấn chứng thiền
Ẩn tích rừng sâu gìn tổ ấn
Mai danh núi thẳm giữ tâm nguyền
Thanh nhàn năm tháng xa trần cấu
Lặng lẽ bốn mùa lánh thế duyên
Danh lợi chẳng màn vui nhật nguyệt
Một đời đạo nghiệp sáng chân nguyên

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Thiền Sư Trường Nguyên. Hạnh tu của Sư rất chuyên cần, sau khi được ấn chứng, Sư vào núi rừng ngồi thiền mười hai giờ mỗi ngày suốt sáu năm liền. Sư rất chân thật, Sư thố lộ chí hạnh chưa thuần nên bị bạn dụ về kinh thành, và khi biết được Sư liền dứt khoát trốn trở về và Sư cho lời khuyên: “…lìa hẳn vọng tưởng chấp trước trong tự thân, mà thấy trí tuệ rộng lớn Như Lai của chính mình, để được lợi ích an lạc.”

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm

(Montréal, Canada).

 




301_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Truong Nguyen

Thiền Sư Trường Nguyên (1110 - 1165)
Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông

(Vào thời Vua Lý Anh Tông)


Kính dâng Thầy bài viết về Thiền Sư Trường Nguyên. Kính bạch Thầy thật ngưỡng mộ trí vô sư của Thầy qua lời kinh Thắng Man và nguyên tác bài thơ Ảnh trầm Hàn thủy của Thiền Sư Thiên Y Nghĩa Hoài mà sách vở trên mạng hiện nay vẫn cho đó là của Thiền Sư Hương Hải và con thật xúc động và trân quý lời dạy của Thầy khi ban tặng chìa khoá vàng để đi vào Quốc độ Niết Bàn Thanh tịnh ngay tại đây và bây giờ ...Kính đảnh lễ Thầy và kính chúc Thầy pháp thể khinh an , HH



Là một trong sáu đệ tử nối pháp của Thiền Sư Đạo Huệ, sau khi được ấn chứng, đã đi vào núi ẩn tích sống đời khiêm tốn với khoảng thời gian khá lâu (6 năm ) làm bạn với khỉ vượn và thiền định 12 giờ mỗi ngày ..

Có thể nói ....nhờ  thiền định thường xuyên nên tâm linh càng sâu sắc hơn nhiều người khác, mặt khác nhờ xa cách trần tục, không bị rơi vào cái bẫy tham sân si mà vướng vòng danh lợi  , nhờ ẩn tu nên Thiền  Sư Trường Nguyên có trái tim khiêm tốn, thành thật, yêu người, nên dù THÂN KHÔ TÂM NGUỘI vẫn chưa trọn vẹn thấy Tánh, tuy vậy sau khi bị dẫn dụ về triều song.... nhờ túc duyên nhiều đời học Phật,lại được yếu chỉ của minh sư   “Loạn ly lan rộng, ái chừ, từ đó mà đến.”nên đã trốn thoát trở về lại sự tĩnh lặng nơi  am tranh của mình mà để lại bài thi kệ tuyệt tác được Thi đàn thời Lý Trần ghi lại như sau : 

Khỉ vượn bồng con lại núi xanh,
Từ xưa Hiền Thánh không mối manh.
Xuân về oanh hót trong vườn uyển,
Thu đến cúc cười mất dáng hình.

(Viên hầu bão tử qui thanh chướng,

Tự cổ Thánh Hiền một khả lượng.

Xuân lai oanh chuyển bách hoa thâm,

Thu chí cúc khai một mô dạng.)

Bài thi kệ  tiêu biểu cho phong thái của một bậc Thánh Hiền, nhưng Thánh hiền trong đời không dễ gì tìm gặp vì các vị đã không dính kẹt vào ái nhiễm nên không để lại dấu tích .

Thật thú vị làm sao khi thi kệ này đã được Giảng Sư TT.Thích Nguyên Tạng  so sánh một cách tuyệt vời khi nói đến tâm thức của một hành giả khi đã thoát ra được thất tình lục dục giữa chốn hồng trần qua bài "Ảnh Trầm Hàn  Thủy "nguyên tác của Thiên Y Nghĩa Hoài sau đó Thiền Sư Hương Hải mượn lời thơ này để trả lời câu hỏi về đại ý Phật Pháp của Vua Lê Dụ Tông.

Nhạn quá  trường giang
Ảnh trầm hàn  thủy
Nhạn vô di ảnh  chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm

( dịch nghĩa : Nhạn bay qua sông bóng tin đáy nước - Nhạn không có ý định để lại hình bóng mình trên nước mà nước cũng chẳng muốn lưu ảnh nhạn vào tâm ) 

Lời giải thích này của Giảng Sư quá rõ khi ví dụ Nhạn là những phiền não đến đi trong vài khoảnh khắc , chỉ có bản tâm mới rỗng lặng, trong lành 

Nhạn bay qua trời, ta cho đó là THỰC.

Nhạn tiêu biểu cho thất tình Đau đớn, buồn rầu, tủi hổ, hờn giận, mừng vui, thất vọng, tuyệt vọng, công hầu khanh tướng–tất cả chỉ là những đám mây qua trời, trong khoảnh khắc

Ảnh nhạn bay dưới nước, ta cho đó là ẢO ẢNH.

Nhưng nhạn bay rồi, không còn dấu tích, chỉ còn khoảng trời KHÔNG. 

Đó là TÂM.( bản tâm ) Bản chất của TÂM ta là không, là rỗng lặng.

Mọi điều ta cho là THỰC hay ẢO ẢNH đều chỉ là ảnh hình trong khoảnh khắc.

Chỉ có khoảng KHÔNG là tồn tại vĩnh viễn.

Là một người trình pháp, sau khi nghe pháp thoại và đọc qua hành trạng thiền Sư Trường Nguyên qua tác phẩm Thiền Sư Việt Nam của Đại trưởng Lão HT Thích Thanh Từ , người viết rất tâm đắc khi được Giảng sư  luận giải về bài Kệ thị tịch mà hai câu cuối đã diễn tả cái Diệu dụng nhiệm mầu của Thể tánh chân thật ( trí tuệ Bát Nhã ) như một chìa khoá vàng để bước vào cửa BẤT NHỊ PHÁP MÔN ( Kiến như thị, Văn như thị ...... Vô vi nhi vô bất vi ) 

Ở chỗ bóng trần,
Thường lìa bóng trần,
Tâm phủ lóng tột,
Cùng vật không thân.
Thể vốn tự nhiên,
Hiện vật không thiên,
Tài bằng trời đất,
Vượt cả nhân luân.
Dưỡng nuôi muôn vật,
Cùng vật làm xuân,
Đứng múa gái sắt,
Đánh trống người cây.

(Tại quang tại trần,

Thường ly quang trần,

Tâm phủ trừng triệt,

Dữ vật vô thân.

Thể ư tự nhiên,

Ứng vật vô ngân,

Tông tượng nhị nghi,

Đào thải nhân luân.

Đình độc vạn vật,

Dữ vật vi xuân,

Tác vũ thiết nữ,

Đả cổ mộc nhân.)

Kính mời quý đạo hữu cùng đọc lời giảng của HT Thích Thanh Từ : 

“Tại quang tại trần, thường ly quang trần”. 

Ở chỗ áng sáng bụi trần thường lià ánh sáng bụi trần. Tại sao ở trong ánh sáng ở trong bụi trần mà thường lià ánh sáng thường lià bụi trần ? Ví dụ khoảng hư không trong nhà này, sáng sớm ánh sáng mặt trờ chiếu vào, nhìn khoảng không chúng ta thấy có bụi bặm lăng xăng. Bụi thì xao động mà ánh sáng và hư không thì không động. 

Ánh sáng và bụi ở trong hư không, nhưng hư không không phải là ánh sáng không phải là bụi, nó không rời ánh sáng và bụi. Nếu nó là ánh sáng thì khi ánh sáng hết hư không cũng mất, Nếu hư không là bụi thì bụi hết thì hư không cũng không còn. Hư không trước sau vẫn là hư không. 

Ánh sáng suyên qua thì thấy có ánh sáng, nhờ có ánh sáng nên thấy bụi lăng xăng. Có ánh sáng có bụi, nhưng ánh sáng và bụi không phải là hư không. Hư không trùm cả ánh sáng và bụi, nhưng không phải ánh sáng không phải bụi, 

“Tâm phủ trần triệt, dữ vật vô thân”. 

Tâm phủ lóng tột, cùng vật không thân. Tức là tâm tư chúng ta lóng lặng cùng  tột thì không còn dính kẹt với sự vật bên ngoài.

Tóm lại, từ câu kệ thứ nhất đến câu này, Ngài chỉ cho thấy nơi mỗi người có tâm thể không phải là sắc chất (bụi) không phải là tinh thần (ánh sáng). Ngay trong thân sắc chất này  có phần tinh thần (vọng tưởng), tâm thể chân thật không phải sắc chất cũng không phải tinh thần (vọng tưởng). Như vậy khi lóng lặng vọng tưởng tâm an định không còn dính mắc nơi thân cảnh thì thể chân thật hiện bày.

“Thể ư tự nhiên, ứng vật vô ngân”. 

Tâm thể đó không ai làm ra, nó sẵn vậy, nó ứng hiện ra muôn vật mà không có tỳ vết. 

Ví dụ như hình ảnh ở ngoài hiện trên mặt gương, chúng ta nhìn gương thấy ảnh người ảnh cảnh. Khi ảnh người ảnh cảnh không còn, chúng ta nhìn vào gương. Thấy mặt gương nguyên vẹn không có tỳ vết gì cả. 

Cũng vậy, tâm thể chúng ta ứng vật hiện hình đủ thứ, mà không hiện tượng nào làm cho nó tỳ vết, cho nên :

“Tông tượng nhị nghi, đào thải nhân luân”. 

Làm nên trời đất, loại bỏ loài người. Nghĩa là một bên làm nên, một bên loại bỏ, ý nói rằng nó trùm cả trời đất và loài người, không có cái gì ngoài nó.

“Đình độc vạn vật, dữ vật vi xuân”. Ngăn độc cho vạn vật, cùng vật làm xuân. Nghĩa là tâm thể này không phá hoại sự vật mà còn làm cho vạn vật càng thêm tươi tốt. 

Ở đây Ngài muốn diễn tả cho chúng ta thấy tâm thể không những làm nên con người mà còn bao trùm cả trời đất, nó là cái thể của nhân loại, của muôn vật chứ không  riêng của một ai.

“Tác vũ thiết nữ, đả cổ mộc nhân”. 

Cô gái bằng sắc đứng múa, người bằng gỗ đánh trống. Gái sắc làm sao biết múa, người gỗ làm sao biết đánh trống ? 

Vật vô tri mà có động tác là ngầm ý nói đến diệu dụng nhiệm màu của thể chân thật, hay nói Bát Nhã vô tri mà vô bất tri. Bát Nhã chỉ cho thể chân thật. “

Vô tri) là không biết mà (Vô bất tri) là không có cái gì không biết. Gái sắc và người gỗ là vô tri mà múa và đánh trống được là vô sở bất tri, đó là theo lý Bát Nhã. 

Đứng về mặt chân không diệu hữu mà nói, thì gái sắc và người gỗ là thể chân không, biết múa và biết đánh trống là diệu hữu. Ngay nơi thể chân không có cái diệu hữu. Chân không diệu hữu không rời nhau. Đó là giảng theo kinh. 

Nếu giảng theo thiền thì gái sắc biết múa và người gỗ biết đánh trống là câu nói phi lý, giống như câu thần chú, nói để người nghe không còn suy nghĩ phân biệt. Không suy nghĩ phân biệt mới hợp với thể chân thật. Hai câu này cho chúng ta thấy người xưa dùng từ ngữ rất là kỳ đặc chúng ta nghe thấyb lạ lùng. Chính cái kỳ đặc lạ lùng đó, khiến người nghe có căn cơ nhạy bén, lãnh hội được chỗ cứu cánh chân thật.

Lời kết : 

Kính đa tạ Giảng Sư , Ngài đã giải thích từng đoạn trong hành trạng Thiền Sư đã truyền trao cốt tủy và thâm yếu nghĩa lý ....Chỉ  với một lời giảng dạy cho chúng đệ tử của Thiền Sư Trường nguyên , được trích dẫn từ Kinh Hoa Nghiêm ....Giảng Sư đã chỉ rõ thế nào là thể tánh tịnh minh, bản tâm thanh tịnh mà Kinh Pháp Hoa gọi là Phật tri Kiến , - kinh Lăng Già gọi là Như Lại Tạng - kinh Thắng Man gọi là Pháp thân 

.....để từ đó kính xin mời nghe ...Đại sư Ấn Thuận đã chỉ dạy: 

"Pháp thân tức Như Lai tạng thì tất cả chúng sanh đều có đầy đủ. Nhưng vì chúng sanh không có công đức trang nghiêm, nên Pháp thân chưa thể hiện bày. Còn Bồ Tát phát Bồ đề tâm tu hạnh tự lợi lợi tha, nghĩa là vì trang nghiêm Pháp thân Nhất thừa"

Đức Như Lai có đủ năng chứng trí và sở chứng lý, nên nói cho cùng thì phải đạt đến cảnh giới của Như Lai mới rốt ráo. 

Kỳ thực, cứu cánh chơn như thì thường hằng bất biến, nên trí huệ và công đức vô biên cũng không lìa chơn thật, tức là năng lực công đức thù thắng mà tất cả chúng sanh xưa nay vốn sẵn có. 

Điều đó như kinh này nói là Như Lai tạng, tức là Phật tánh. Như Lai tạng tức Không tánh của tất cả pháp, tức Diệt đế là nơi nương tựa và phát sanh của công đức thù thắng. Mọi người đều có Như Lai tạng, nên mọi người đều có thể thành Phật. Từ cảnh trí cứu cánh của Như Lai truy cầu căn nguyên, tức để chỉ bày Như Lai tạng là chỗ sở y cứu cánh của Như Lai. Như sông dài rộng lớn, nếu cứ một mạch theo dòng tìm nguồn thì có thể phát hiện được chỗ phát nguyên của sông. Mọi người đều có Như Lai tạng, chỉ cần xứng tánh thì trí năng công đức của Như Lai tạng sẽ dẫn phát khai triển, tức đạt Như Lai. Như Lai là cứu cánh. Bởi do tất cả chúng sanh đều có Như Lai tạng, nên tất cả chúng sanh đều bình đẳng, và rốt cùng tất cả đều thành Phật. Tư tưởng “Chơn thường diệu hữu bất không” này được thể hiện và phát huy đến cực điểm trong khắp điển Đại thừa

Kính trân trọng, 



Kính ngưỡng Thiền Sư Trường Nguyên ...

...một trong sáu đệ tử nối pháp Minh Sư Đạo Huệ 

Pháp hiệu đơn giản ....tên làng địa danh  (1)

Sau khi được ấn chứng ...ẩn tu đạm bạc nhiều năm (2) 

Nhờ truyền thống gia đình theo Phật ... THÂN KHÔ, TÂM NGUỘI! 



Tuy bị dẫn  dụ về triều ...dứt khoát vào phút cuối (3) 

Thường khuyên rằng : vòng danh lợi chớ dấn thân (4) 

Khi công hạnh chưa đủ ...cần rèn luyện nội tâm 

Phong thái bậc thánh hiền ... biểu hiện qua thi kệ (5) 



Dạy chúng  trích dẫn Hoa Nghiêm kinh, quá tinh tế (6) 

Tất cả chúng sinh ....Trí tuệ Như Lai nơi mình 

Lìa vọng tưởng chấp trước...Tâm hư không hoàn sinh 

TUỲ KỲ TÂM TỊNH TỨC PHẬT ĐỘ TỊNH  ! 



Kính đa tạ Giảng Sư ...nhiều tên gọi Phật tri kiến (7)

Trong đó Pháp thân hiển bày nhờ công đức trang nghiêm(8)

Bố thí nhẫn nhục , nhu hoà, tinh tấn, tham thiền 

Phật là Lẽ Thật , Thấy và  Biết như Thật 



Kính tri ân Giảng Sư .....ngầm trao tặng, ban phát  

Chìa khoá vàng  ...dùng mở BẤT NHỊ PHÁP MÔN 

Kiến như  thị, Văn như thị ....niệm niệm nhuần ôn 

Không còn đối đãi phân biệt, vọng chấp ....GIẢI THOÁT 

Bài kệ thị tịch ...chiêm nghiệm hai câu cuối DIỆU LỰC VÔ TÁC (9) 

Chân không diệu hữu không tách rời nhau

Vô vi nhi vô bất vi ...đạo lý thâm sâu 

Cứu cánh chân thật ...nằm trong ngôn ngữ Thiền ...kỳ đặc ! 



Nam Mô Thiền Sư Trường Nguyên tác đại chứng minh 

Huệ Hương 

Melbourne 23/10/2021 



 Chú thích : 

(1) 

Sư họ Phan, quê ở Trường Nguyên, Tiên Du, dòng dõi theo Phật. Khi mới xuất gia thọ giáo với Thiền sư Đạo Huệ.

(2). 

Sau khi được Đạo Huệ ấn chứng, Sư đi thẳng vào núi Từ Sơn ẩn tích. Ở đây, hàng ngày Sư mặc áo cỏ, ăn trái dẻ, làm bạn cùng suối, đá, khỉ, vượn. Suốt mười hai giờ, Sư nhồi nặn thân tâm lặng lẽ thành một mảnh. Trải qua năm, sáu năm, người đời không ai xem thấy được chỗ ảnh hưởng của Sư.

(3) 

Vua Lý Anh Tông nghe tiếng ái mộ, muốn gặp Sư mà không thể được. Vua thầm sai Phiên thần họ Lê là bạn cũ của Sư khéo dẫn dụ về triều. Họ Lê dụ được Sư về đến nhà trọ chùa Hương Sát. Sư tự hối hận, liền trốn trở về núi xưa. 

(4) 

Sư bảo đồ đệ:

- Hạng người thân khô tâm nguội như ta, không phải những vật phù ngụy thế gian có thể cám dỗ được. Bởi vì chí, hạnh của ta chưa thuần nên bị các thứ bẫy lồng vây khốn. 

(5)

Khỉ vượn bồng con lại núi xanh,
Từ xưa Hiền Thánh không mối manh.
Xuân về oanh hót trong vườn uyển,
Thu đến cúc cười mất dáng hình.

(Viên hầu bão tử qui thanh chướng,

Tự cổ Thánh Hiền một khả lượng.

Xuân lai oanh chuyển bách hoa thâm,

Thu chí cúc khai một mô dạng.)

(6) Sư thường bảo mọi người:

- Lạ thay! Lạ thay! Tại sao các chúng sanh này có đủ trí tuệ Như Lai, mà ngu si mê hoặc chẳng thấy chẳng biết. 

Ta thường đem đạo lý dạy dỗ, khiến họ lìa hẳn vọng tưởng chấp trước trong tự thân, mà thấy trí tuệ rộng lớn Như Lai của mình, được lợi ích an lạc.

(7) 

Kinh Lăng Nghiêm thể tánh tịnh minh, bản tâm thanh tịnh

Kinh Pháp Hoa gọi là Phật tri Kiến 

kinh Lăng Già gọi là Như Lại Tạng

kinh Thắng Man gọi là Pháp thân 

(8)

Pháp thân tức Như Lai tạng thì tất cả chúng sanh đều có đầy đủ. Nhưng vì chúng sanh không có công đức trang nghiêm, nên Pháp thân chưa thể hiện bày. Còn Bồ Tát phát Bồ đề tâm tu hạnh tự lợi lợi tha, nghĩa là vì trang nghiêm Pháp thân Nhất thừa"

Đức Như Lai có đủ năng chứng trí và sở chứng lý, nên nói cho cùng thì phải đạt đến cảnh giới của Như Lai mới rốt ráo. 

(9) 

Ở chỗ bóng trần,
Thường lìa bóng trần,
Tâm phủ lóng tột,
Cùng vật không thân.
Thể vốn tự nhiên,
Hiện vật không thiên,
Tài bằng trời đất,
Vượt cả nhân luân.
Dưỡng nuôi muôn vật,
Cùng vật làm xuân,
Đứng múa gái sắt,
Đánh trống người cây.

(Tại quang tại trần,

Thường ly quang trần,

Tâm phủ trừng triệt,

Dữ vật vô thân.

Thể ư tự nhiên,

Ứng vật vô ngân,

Tông tượng nhị nghi,

Đào thải nhân luân.

Đình độc vạn vật,

Dữ vật vi xuân,

Tác vũ thiết nữ,

Đả cổ mộc nhân.)

Đứng về mặt chân không diệu hữu mà nói, thì gái sắc và người gỗ là thể chân không, biết múa và biết đánh trống là diệu hữu. Ngay nơi thể chân không có cái diệu hữu. Chân không diệu hữu không rời nhau. Đó là giảng theo kinh. 



🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️


Trở về Mục Lục Bài giảng của TT Nguyên Tạng

về Chư Vị Thiền Sư Việt Nam

thieu lam tu



🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

facebook
youtube

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/02/2022(Xem: 7728)
Năm 2011 Tu Viện Quảng Đức lần đầu tiên tổ chức chuyến Hành hương Nhật Bản và Đại Hàn, nhưng năm đó Nhật có biến cố động đất và sóng thần nên lịch trình hành hương trên xứ Nhật bị hủy bỏ. Cho đến nay sau 7 năm, Thầy Trụ Trì Thích Nguyên Tạng và anh Tony Thạch, Giám đốc Công Ty Du Lịch Triumph Tour, lại một lần nữa tổ chức chuyến Hành Hương Chiêm Bái Danh Lam Phật Giáo tại Nhật và Đại Hàn trong thời điểm đầu tháng Tư theo lời yêu cầu của nhiều Phật tử, ngõ hầu xuyên qua những danh lam Phật Giáo mà đoàn đến chiêm bái, đoàn còn được chiêm ngưỡng những cảnh trí đẹp tuyệt vời được tô điểm bởi hương sắc nhẹ nhàng của hoa Anh Đào.
08/02/2022(Xem: 7207)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 18251)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5331)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5556)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6294)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5138)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4149)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5436)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3951)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567