Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

45.Thiền sư Trí Thiền, Đời thứ 16, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi

21/09/202110:57(Xem: 15168)
45.Thiền sư Trí Thiền, Đời thứ 16, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi
288_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Tri Thien




Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay cuối tuần thứ Ba, 21/9/2021, chúng con được học về Thiền Sư Trí Thiền, đời thứ 16, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi.Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 288 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).

 

Sư họ Lê tên Thước, dòng dõi Ngự man vương triều Lê Đại Hành quê ở Phong Châu. Ông nội tên Thuận Tông làm quan triều Lý, chức Trung thư đại liêu ban, kết duyên với Công chúa Kim Thành. Ông thân sanh Sư tên Đạc làm quan chức Minh tự. Người anh tên Kiếm bổ chức Tam nguyên Đô tuần kiểm và Châu mục. Thuở nhỏ, Sư vẫn theo nghiệp trường ốc, thi đỗ Tiến sĩ, sung chức Cung hầu Thư gia.

 

Sư phụ giải thích:

Sư thuộc dòng dõi quý tộc, bà nội là công chúa Kim Thành từ triều đình vua Lê Đại Hành.

 

Năm hai mươi bảy tuổi, Sư theo người anh đến Pháp tịch của Thiền sư Giới Không, nghe giảng kinh Kim Cang đến câu:

Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn bọt bóng,
Như sương cũng như điện,
Phải quán sát như thế.

(Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.)

Bỗng nhiên Sư cảm ngộ, bèn nghĩ: “Năm lời của đức Như Lai chẳng phải luống dối. Bởi tất cả pháp trong thế gian đều hư huyễn không thật chỉ có Đạo mới là chân thật. Ta còn cầu cái gì? Nhà Nho thì truyền bá đạo vua tôi cha con; Phật pháp thì dạy rõ công đức của Thanh văn, Bồ-tát. Hai lối dạy tuy có khác, tựu trung chỉ về một mối mà thôi. Nhưng muốn vượt khỏi khổ lớn sanh tử, dứt chấp có không, ngoài Phật giáo không thể được vậy.

Nghĩ xong Sư xin cạo tóc xuất gia.

 

Sư phụ giải thích:

-Sư đến với đạo nhờ theo người anh trai tên Lê Kiếm là một Phật tử thuần thành, mời cùng đến nghe Thiền Sư Giới Không  giảng Kinh Kim Cang, một bản Kinh cốt tủy của thiền tông. Như Lục Tổ Huệ Năng xưa nghe, Sư nghe đến bài kệ Kinh Kim Cang thì cảm ngộ được lẽ diệu của Phật Pháp. Sư nghĩ rằng :”Năm lời của Đức Thế Tôn chẳng phải luống dối…muốn vượt khỏi khổ lớn sanh tử, phải dứt chấp có không”.

- Có là giả có, không có gì là thiệt có tồn tại mãi với thời gian.

- Công Đức của Thanh Văn là bốn quả, quả cuối cùng là vô sanh bất tử, vô sanh là không còn tạo nghiệp mới.

- Công Đức của Bồ Tát là lục độ vạn hạnh, độ tận chúng sanh tham sân si…cho vào vô dư niết bàn 

- Sư Phụ nhắc lại đại ý của kinh Kim Cang là Đức Thế Tôn giải đáp 2 câu hỏi của Tôn Giả Tu Bồ Đề: thứ nhất: Làm sao để hàng phục vọng tâm ? Phật dạy: muốn hàng phục vọng tâm phải độ tận chúng sanh, đưa chúng vào vô dư Niết Bàn. Chúng sanh ở đây chính là chúng sanh tham, chúng sanh sân, chúng sanh si, chúng sanh mạn, chúng sanh nghi, chúng sanh ác kiến…v.v… độ hết loài chúng sanh này chính là phương cách hành phục vọng tâm.

 

Thứ hai: làm sao để an trụ tâm ? Phật dạy: muốn an trụ tâm phải thực hành phương pháp bố thí không trụ tướng “không nên trụ sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên trụ vào chỗ không có chỗ trụ để khởi tâm kia “, tâm kia  là tâm giác ngộ. Có nghĩa lục căn tiếp xúc với lục trần mà không trụ, không chạy theo, không vướng nhiễm, không bám víu, hoàn toàn thong dong tự tại…đó là mới chính thực là an trụ tâm.

 

Nhưng muốn hàng phục tâm và an trụ tâm như trên, hành giả cần phải dùng trí tuệ kim cang Bát nhã để rọi chiếu các pháp hữu vi, giả có để mà buông xuống mọi thứ dễ dàng:

 

Các pháp thế gian thuộc hữu vi

Như đêm khuya giấc mộng đông thùy

Như đồ giả dối không bền chắc

Như bọt nước tan mất cấp kỳ.

Như bóng trong gương nào phải có

Như sương giọt nắng chẳng còn chi

Như luồng điện chớp làm gì có

Quán xét như vầy mới thật tri.

 

Ngài Trí Thiền đã liễu đạt được lời dạy này mà từ bỏ chốn quan trường và dõng mãnh phát tâm xuất gia tu học với Thiền Sư Giới Không.

 




Kính mời xem tiếp


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3779)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3036)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2856)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2708)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3100)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2508)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4083)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3113)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3246)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]