Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Mãn Giác (1052 – 1096, đời thứ 8, Thiền Phái Vô Ngôn Thông) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺

24/08/202110:05(Xem: 22621)
Thiền Sư Mãn Giác (1052 – 1096, đời thứ 8, Thiền Phái Vô Ngôn Thông) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺






Thiền Sư Mãn Giác
(1052 – 1096, đời thứ 8, Thiền Phái Vô Ngôn Thông)

🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺

Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng

Trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâm, Cư Sĩ Huệ Hương
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh
Lồng nhạc và online: Cư Sĩ Quảng Phước, Cư Sĩ Quảng Tịnh






Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,


Hôm nay hàng đệ tử chúng con được học về Thiền Sư Mãn Giác (1052-1096). Ngài thuộc đời thứ 8, dòng Vô Ngôn Thông. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 276 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (từ đầu tháng 5-2020).

Sư họ Nguyễn tên Trường, quê ở Lũng Chiền làng An Cách. Thân phụ là Hoài Tố làm chức Trung thơ ngoại lang.

Lúc vua Lý Nhân Tông còn làm thái tử, triều đình có chọn con em của các danh gia vào hầu. Sư là người học rộng hiểu nhiều lại thông cả Nho, Lão, Phật nên được dự tuyển, những lúc rảnh, Sư thường chú tâm vào Thiền na. Đến khi vua Lý Nhân Tông lên ngôi, vì lòng mến Sư nên ban hiệu Hoài Tín.


Sư Phụ giải thích: ngài Mãn Giác từng là tư vấn chính trị cho thái tử Nhân Tông, vì bản thân lầu thông tư tưởng của Lão, Khổng và Phật, giúp cho thái tử đường hướng lên ngôi trị quốc, con đường ra làm quan để phò vua giúp nước, hưởng vinh hoa phú quý rộng mở trước mắt ngài, nhưng ngài từ bỏ tất cả để xuất gia vì chỉ có giáo nghĩa của Đạo Phật mới giúp cho ngài thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.

Lý Nhân Tông là vị vua thứ 4 của triều đại nhà Lý, có công xây dựng hoàn tất ngôi Chùa Một Cột, niềm tự hào của dân tộc VN, ông là con của vua Lý Thánh Tông và phi tần Ỷ Lan.


Khoảng niên hiệu Anh Võ Chiêu Thắng (1076-1084, thời vua Lý Nhân Tông), Sư dâng biểu xin xuất gia, theo học với thiền sư Quảng Trí. Sau khi được tâm ấn, Sư thường chống gậy mang bát vân du khắp nơi, để tìm thiện tri thức. Sư đến nơi nào thường có học giả vân tập đông đảo.

Sư Phụ giải thích: ngài Mãn Giác chọn xuất gia theo Phật giáo, và chú tâm về Thiền na, phương pháp đưa đến chấm dứt vòng khổ đau sanh tử luần hồi.

Thiền Na tiếng Phạn gọi là Dhyāna tức là Tịnh lự. Tịnh là tu Chỉ, dừng lại hết mọi vọng tưởng, đạt đến Định tâm, đắc ngũ thần thông (Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Thần Túc Thông và Túc Mạng Thông). Còn Lự là tu Quán,  dùng trí tuệ quán chiếu thân, tâm, cảnh là không, là giả có, ly sinh hỷ, buông hết mọi dính mắc, tận diệt chấp ngã, chấp pháp, trở về với pháp gốc, tự tánh của bản thân, nhận ra vô sư trí, đạt tới vô sanh bất tử, đắc quả A La Hán, chấm dứt sanh tử luân hồi, ngay tại đây hành giả chứng thêm thần thông cuối cùng là Lậu Tận Thông.

Sư Phụ cũng nhắc thêm đến thời Lục Tổ Huệ Năng ngài chủ trương Định-Huệ bình đẳng, trong định có tuệ, trong tuệ có định, tức là định-tuệ, chỉ-quán song tu với nhau, chứ  không theo thứ lớp như thuở ban đầu. Ngài Mãn Giác đã lầu thông pháp tu Thiền Na (Chỉ-Quán) này.

Vua Lý Nhân Tông ban cho Sư hiệu Hoài Tín, biểu trưng cho ý nghĩa là nhớ lại túc duyên trong quá khứ tín tâm với Tam Bảo.

 

Sư xem Đại Tạng Kinh được trí vô Sư, nên làu thông kinh pháp, thiền na.

Sư phụ giải thích: hành giả có hai loại trí: 1/Vô Sư Trí: là trí tuệ tự có, là trí thường hằng của tất cả chúng sanh, thành tựu được không nhờ vào sức của người khác.

2/Hậu Đắc Trí: là trí tuệ đạt được sau khi tu tập thành công giới định tuệ, trí này được kích hoạt hiển lộ ra từ Vô Sư trí sẵn có của mình

- Đức Thế Tôn đã nhận ra Vô Sư trí, nhờ Ngài đã muốn tìm ra nghi vấn, con người từ đâu đến và chết rồi đi về đâu, không ai giải đáp được, Ngài tự đi tìm và sau 6 năm tu tập, một sáng sao mai vừa mọc, ngài chứng đắc đạo quả dưới cội Bồ Đề, Vô Sư trí hiển lộ, đã giải đáp rõ mọi thứ qua túc mạng minh của ngài, thấy biết mình từ nhiều kiếp ngàn xưa, thiên nhãn minh thấy nghiệp quả của chúng sanh trong lục đạo luân hồi như đứng trên lầu cao thấy chúng sanh đi qua lại trên các nẻo đường.

Đức Thế Tôn cho biết tất cả chúng sanh đều có vô sư trí, để nhận ra được vô sư trí của chính mình thì phải hành trì tu tập. Ngày nay, Thiền sư Mãn Giác nhờ đọc Đại Tạng Kinh mà đạt được Vô Sư Trí.

Vua và bà Hoàng thái hậu Cảm Linh Nhân (Ỷ Lan), đang để tâm học thiền, bèn dựng ngôi chùa bên cạnh Cảnh Hưng hiệu là Giáo Nguyên, thỉnh Sư trụ trì để tiện việc tới lui học hỏi. Đối với Sư chẳng dám gọi danh thường, chỉ xưng là Trưởng lão. Một hôm nhà vua có lời tán thán công hạnh của Sư như sau: “Bậc chí nhân thị hiện, cốt để cứu vớt chúng sanh, không hạnh nào chẳng đủ, không việc nào chẳng tu, chẳng phải chỉ sức định tuệ, mà còn có công giúp ích cho đời, nên phải kính nhận đó’’.
Vua bèn phong hiệu Giáo Nguyên Thiền Viện, Hoài Tín đại sư truyền Tổ Vô Tu Vô Chứng Tâm Ấn. Sư phụng chiếu nhận chức Nhập nội Đạo Tràng, Từ tử Đại Sa môn, Đồng tâm ty cộng sự.

Sư Phụ giải thích: chùa Giáo Nguyên do Vua Lý Nhân Tông xây dựng trong thành nội Thăng Long để thỉnh ngài về trụ trì. Giáo là dẫn dắt, Nguyên là cội nguồn. Lập chùa ra để giáo hóa, dẫn dắt chúng sanh trở về nguồn cội tâm linh, nguồn cội ấy chính là “thể tánh tịnh minh, chân tâm thường trú” mà mọi người hằng có.

 

Niên hiệu Hội Phong thứ năm (1096), cuối tháng mười một, Sư cáo bệnh để kệ dạy chúng đệ tử trước khi viên tịch:

Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Sư ông Thanh Từ dịch nghĩa:

 

Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa cười.
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, sân trước, một cành mai.

 

Sư phụ cũng đọc thêm bản dịch khác của Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, rất hay:

 

Xuân đi, trăm hoa rụng
Xuân đến nở. trăm hoa.
Trước mắt, đời chuyển biến!
Đầu xanh tuyết điểm pha.
Đừng nghĩ:Xuân tàn hoa rụng hết
Bên thềm, mai nở trắng... đêm qua!

 

Nói kệ xong, Sư ngồi kiết-già thị tịch, thọ bốn mươi lăm tuổi, được mười chín tuổi hạ. Vua kính lễ rất hậu, các công khanh đi đưa đều có đốt tín hương, làm lễ hỏa táng thu xá-lợi xây tháp thờ tại chùa Sùng Nghiêm làng An Cách. Vua ban thụy là Mãn Giác.

 
Sư Phụ giải thích:
Đây là bài thơ “Cáo Tật Thị Chúng” có nghĩa là “thông báo bệnh tật để làm phương tiện nhắc nhở chúng đệ tử” trước khi ngài Mãn Giác viên tịch ở tuổi 45 năm, cuộc đời của Ngài quá ngắn ngủi, Ngài chỉ để lại cho đời một bài thơ duy nhất này, nhưng lại là một tác phẩm thơ ca nổi tiếng của nền văn học PG triều đại nhà Lý, đây là một bản tuyên ngôn về triết học ẩn ngữ qua nghệ thuật văn chương, mượn ngoại cảnh để biểu tỏ chân tâm, đưa hành giả vào Phật  địa, một loại hình triết học và văn chương đã đạt đến đỉnh cao thượng thừa, đỉnh cao đó chính là đưa người đọc tiến đến chỗ giác ngộ và giải thoát nếu hành giả nhận ra Phật tánh của bản thân qua ẩn dụ của “cành mai” trong bài thơ này.

 

Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến nở trăm hoa.

Xuân đi, xuân đến là chỉ có thời gian vô thường sinh diệt, là việc bình thường của đời sống nhưng chúng sanh không nhận ra.

Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi.

Đời người chuyển biến tới không ngừng, theo thời gian, tóc bạc, da nhăn, mắt mờ…cái già đã đến ngay trên đầu của mình mà mình không biết, vì mình phải ngược xuôi với cuộc sống bụi bặm này, không có thời giờ để nhận diện hiện thực, Sư Phụ dẫn chứng bản thân Sư Phụ đã phải mang kính, da nhăn…

Hai câu cuối rất quan trọng:

Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, sân trước, một cành mai.


Đây là niềm lạc quan mà Ngài Mãn Giác muốn nhắn gởi cho mọi hành giả, chớ bảo chết là hết như xuân qua rồi không còn hoa mai nữa mà sau khi chết thần thức của chúng ta vẫn còn để đi vào cảnh giới khác tùy theo nghiệp quả của mình.

Ngài đưa ra bằng chứng hùng hồn là “Đêm qua, sân trước, một cành mai”. Cành mai này nở vào đêm giữa mùa đông giá rét, mùa đông sao lại có hoa mai nở ? hoa mai nở mùa xuân mới đúng thời chứ.  Sư phụ đã giải thích: Hoa mai là ẩn dụ cho Pháp gốc, là Vô Sư trí, là chân tâm Phật tánh, là tánh biết thường hằng bình đẳng trong tất cả chúng sanh, vì vô minh che mờ  Pháp gốc, Phật tánh nên không nhận ra.


Cành mai Phật tánh luôn tiềm ẩn trong giai trình tiệm tu giữa mùa đông giá lạnh, khi đủ duyên lành nắng ấm thì hiển lộ ra.

Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiển Sư Mãn Giác do Thầy Chúc Hiền cúng dường.

“Học rộng hiểu nhiều tam giáo thông
Thiền na cảm kính hướng chơn tông
Xuất gia học đạo hành chánh pháp
Giảng pháp xem kinh mở sáng lòng
Pháp hoá hưng long hương diệu ngát
Uy phong nghiêm tịnh đức huyền trong
Vua quan hoàng tộc thân lâm học
Thiền mạch xương minh rạng núi sông…!”  


Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Thiền Sư Mãn Giác, tuy Sư trụ thế rất ngắn ngủi, vỏn vẹn chỉ 45 năm, nhưng Sư đã để lại cho đời một tuyên ngôn văn chương triết học thượng thừa tâm linh, một cành mai ẩn dụ cho pháp gốc Phật tánh, luôn hiện hữu rực sáng trong chốn thiền môn gần một ngàn năm qua.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).     

 


276_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Man Giac



Thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096)
(Đời thứ 8, dòng Vô Ngôn Thông)



Kính dâng Thầy bà trình pháp về Thiền Sư Mãn Giác . Kính đa tạ và tri ân Thầy xuyên suốt qua các bài pháp thoại về Tổ Sư Thiền Ấn, Trung, Việt Nam Thầy luôn nhắc nhở đến Thể Tánh tịnh minh, Chân Tâm. Phật Tánh mà văn chương ngôn ngữ thường diễn tả như là một viên Ngọc quý, đóa sen nhưng hôm nay lại được Thiền Sư Mãn Giác dùng cành mai và qua tích sử hành trạng Ngài Mãn Giác , Thầy đã chỉ bày thế nào là Trí Vô Sư và Hậu Vô Sư Trí . Kính mượn chữ lung linh khi Thầy tán dương Triết học ẩn ngữ của Thiền Sư Mãn Giác với bài thơ Cáo Tật thị chúng để kính xin tán dương lại những bài pháp thoại của Thầy ...quá thâm trầm , sâu sắc lung linh ...chứa nhiều ý nghĩa . Kính đảnh lễ Thầy, HH


Trong suốt cuộc đời tu hành của mình, Thiền  Sư Mãn Giác chỉ để lại một tác phẩm duy nhất,
nhưng cũng là một tác phẩm độc đáo của nền văn học thời Lý còn lại đến nay. 

Đây là một tác phẩm văn học mà nét lung linh Triết học ẩn ngữ của Phật giáo đã đến mức
độ thượng thừa khi mượn ngoại cảnh để chỉ ra Chân Tâm, Phật tánh, Trí Vô Sư .

(Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn tiền quá,

Lão tùng đầu thượng lai.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.) 

HT Thích Đức Nhuận dịch Việt :
Xuân đi trăm hoa rụng 

Xuân đến nở trăm hoa

Trước mắt đời chuyển biến

Đầu xanh tuyết điểm hoa 

Đừng nghĩ Xuân tàn ... hoa rụng hết 

Bên thềm mai nở trắng  đêm qua 

Ngài không nói về cành mai cụ thể trong một thời điểm cụ thể nào Ngài đang nói về cành mai BẤT DIỆT, cành mai bản thể ( bản chất, nền tảng ). Đây có thể gọi là phần THỊ của KHAI. THỊ NGỘ NHẬP, PHẬT TRI KIẾN với người đã  giác ngộ ở đỉnh cao của trí tuệ đúng như Vua Lý Nhân Tông đã ban đạo hiệu là  ( Mãn Giác ) cho Ngài 

Vì Ngài đã KHAI  cho chúng ta thấy trong 4 câu đầu với tư cách là một Trưởng Lão, Ngài  khuyên giải đồ đệ hãy chấp nhận lẽ tuần hoàn. Cái sinh cái tử là thông thường, đời người có sinh ra, có già đi, và có chết, cũng là chuyện thông thường 

Hơn thế nữa bài  thơ  đã có tác dụng đầu tiên trong việc  cảnh tỉnh về  Giáo lý nhà Phật. (Vô Thường, Khổ, Vô Ngã , Niết  Bàn ) để nhận thấy rằng : 

 Vũ trụ này là tuần hoàn, là vĩnh viễn sinh hóa theo luật nhân quả, và người đời - sắc thân mà mỗi con người mang lấy, do nghiệp của kiếp trước chuyển hóa mà có, và một trong những hình thức biểu hiện lẽ tuần hoàn của vũ trụ, đó  là sự biến diệt không tránh khỏi và không trừ một vật gì ở trên đời này; theo một chu kỳ Thành , Trụ, Hoại Diệt . 

Chấp nhận lẽ tuần hoàn, để đừng có những cuồng vọng về sự trường sinh bất tử của cá nhân, đừng bị lục tặc (sáu tính xấu trong con người) hành hạ, làm cho tâm trở nên rối loạn - âu đó cũng là một biện pháp khai phóng tâm lý rất hay của người theo đạo

 Thiền, nó giúp người ta dẹp bớt đi bao nhiêu tham, sân, si, ái, ố dục vô ích, không những làm khổ mình còn làm khổ lây rất nhiều đồng loại khác nữa.



Kính thương tiếc cùng ngưỡng mộ ...Ngài Mãn Giác ! 

Trưởng Lão Thiền Sư tài hoa ...trụ thế chẳng lâu (1) 

Có phải  mọi  việc viên thông...còn gì để lo âu ? 

Khi thực tại mầu nhiệm tròn đầy, thể tánh đã triệt ngộ ! 



Nhìn lại tích sử ..tuy dòng dõi  danh gia quan lộ (2) 

Tam Giáo tinh thông... dù thế sự có thăng trầm 

Dâng biểu xuất gia, minh sư Quảng Trí ấn tâm 

Tu tập Thiền Na, Tam tạng kinh đã kích hoạt (3) 

Trí Vô Sư uyên nguyên sẵn có...liền tự phát ! (4) 



Kính đa tạ Giảng Sư....

...Ngài Hoàng Bá Hy Vận ...bài  kệ tương đồng (5)

Mai biểu  trưng người quân tử ...gặp nghịch cảnh vẫn thông! 

Hiểu "Chuyện tử sinh vô thường  mãi mãi là định luật !"(6)



 Tuy Vũ trụ thay  đổi, biến diệt .... 

.....sáng sao mai ...Chân lý nhận ra từ Đức Phật(7) 

Chân Tâm , bản thể hằng hữu sẽ hiển bày 

Không còn Tham ái vô minh ...sẽ thanh tịnh ngay 

Nên " ĐẠO VÔ SANH SẼ CHỨNG, ĐẠO VÔ SANH NGUYỆN CHỨNG "( 8) 



Nam Mô Mãn Giác  Thiền Sư tác đại chứng minh 



Huệ Hương 

Melbourne 24/8/2021 



(1) Niên hiệu Hội Phong thứ năm (1096), cuối tháng 11, Sư cáo bệnh để kệ dạy chúng:

Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa cười.
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, sân trước, một cành mai.

(Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn tiền quá,

Lão tùng đầu thượng lai.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.)

Nói kệ xong, Sư ngồi kiết-già thị tịch, thọ bốn mươi lăm tuổi, được mười chín tuổi hạ.

Vua kính lễ rất hậu, các công khanh đi đưa đều có đốt tín hương, làm lễ hỏa táng thu xá-lợi xây tháp thờ tại chùa Sùng Nghiêm làng An Cách. Vua ban thụy là Mãn Giác.

(2) Sư họ Nguyễn tên Trường, quê ở Lũng Chiền làng An Cách. 

Thân phụ Mãn giác là Lý Hoài Tố, từng làm đến chức Trung thư ngoại lang dưới hai triều Lý Thánh Tông (1051-1072) và Lý Nhân Tông (1072-1128), và chắc là rất thông hiểu chữ nghĩa, vì đã được Triều đình cử làm Chánh sứ trong đoàn sứ bộ Việt Nam đi sang Trung Quốc vào năm 1073 để báo tin Lý Thánh Tông mất

Lúc vua Lý Nhân Tông còn làm Thái tử, triều đình có chọn con em của các danh gia vào hầu. Sư là người học rộng hiểu nhiều lại thông cả Nho, Lão, Phật nên được dự tuyển. Những lúc rảnh, Sư thường chú tâm vào Thiền-na. 

Đến khi vua Lý Nhân Tông lên ngôi, vì lòng mến Sư nên ban hiệu Hoài Tín.

(3)Khoảng niên hiệu Anh Võ Chiêu Thắnng (1076-1084), Sư dâng biểu xin xuất gia, theo học với Thiền sư Quảng Trí. 

Sau khi được tâm ấn, Sư thường chống gậy mang bát vân du khắp nơi, để tìm thiện tri thức. Sư đến nơi nào thường có học giả vân tập đông đảo.

Sau, Sư xem Đại tạng kinh được Trí vô sư, là bậc lãnh tụ pháp môn trong một thời vậy.

Vua và bà Hoàng thái hậu Cảm Linh Nhân (Ỷ Lan) đang để tâm học Thiền, bèn dựng ngôi chùa bên cạnh cung Cảnh Hưng hiệu là Giáo Nguyên, thỉnh Sư trụ trì để tiện việc tới lui học hỏi. Đối với Sư chẳng dám gọi danh thường, chỉ xưng là Trưởng lão.

Một hôm, nhà vua bảo Sư:

- Bậc chí nhân thị hiện, cốt cứu vớt chúng sanh, không hạnh nào chẳng đủ, không việc nào chẳng tu, chẳng phải chỉ sức định tuệ, mà cũng có công giúp ích, nên phải kính nhận đó.

Bèn phong hiệu Giáo Nguyên Thiền Viện, Hoài Tín đại sư truyền Tổ Vô Tu Vô Chứng Tâm Ấn.

Sư phụng chiếu nhận chức Nhập nội Đạo tràng, Tứ tử Đại Sa-môn, Đồng tam ty Công sự, được quyên năm mươi hộ.

(4) 

Giải thích Trí Vô Sư , HT Thanh Từ đã thuyết giảng như sau 

Nhưng trí tuệ trong nhà Phật không phải là trí tuệ thường, mà bao gồm hai phần, trí tuệ hữu sư và trí tuệ vô sư. 

Chúng ta đi học, nhờ thầy bạn mà mình hiểu được nhiều điều trong cuộc đời gọi là trí tuệ hữu sư. Còn trí tuệ vô sư là trí tuệ do mình tự phát ra từ tâm thanh tịnh như Đức Phật nhờ thiền định mà được giác ngộ vậy. Ngài bảo “Ta học đạo không thầy”, không thầy mà sáng, đó là trí tuệ vô sư.

Làm sao đạt được trí tuệ vô sư? Khi tâm lặng lẽ sáng suốt thì chúng ta thấy được những điều trước kia mình chưa thấy, biết được những điều trước kia mình chưa biết. Cái thấy biết đó là thấy biết của trí vô sư. Tất cả chúng ta điều có trí vô sư. Vì trí vô sư chính là Phật tánh của tất cả chúng sanh. Mình có Phật tánh sẵn nhưng vì quên nên không thấy. Đức Phật biết quay trở lại mình bằng cách thiền định để lóng lặng thân tâm. Từ tâm lóng lặng trong sáng đó phát ra trí vô sư.

Nếu chúng ta để ý một chút sẽ mừng rằng mình có trí vô sư. 

(5) 

Ai cũng biết tháng 11 (năm 1096), khí trời cũng chỉ vừa mới lập đông, chưa phải là mùa xuân, vậy mà Mãn Giác Thiền Sư lại lấy mùa xuân – hoa mai để nói, thậm chí ngay trong lúc bệnh duyên sắp đến hồi thị tịch. 

Như vậy há chẳng phải trong nghịch cảnh mà nói chuyện thuận duyên, mượn mùa xuân trần thế để hóa dụ chúng đệ tử và cho cả muôn đời sau phải thấy mùa xuân, hoa mai ngay trong lúc giá rét lạnh đông!

Tương đồng tinh thần ấy, Thiền sư Hoàng Bá Hy Vân (? – 850) cũng từng nói “ 

Trần lao quýnh thoát sự phi thường
Hệ bã thằng đầu tổ nhất trường
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc hoa mai phốc tỷ hương.

Bài dịch:(2)

Vượt cõi trần lao việc chẳng thường
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương.

(6) Một học giả đã bình giải như sau Cái sinh cái tử là thông thường, đời người có sinh ra, có già đi, và có chết, cũng là chuyện thông thường Và vũ trụ này chỉ là tuần hoàn, mọi hiện tượng, sự vật đều phải qua quá trình vận động luẩn quẩn, lặp đi lặp lại, thì liệu kiếp người có trở nên vô nghĩa, và không còn chỗ nào để ta bám lấy mà tin vào sự trường tồn và phát triển của sự sống nhân loại nữa chăng? Đó chính là một điều băn khoăn thường có của thế nhân, không thể phút chốc dùng lý trí mà dẹp đi được. 

Dĩ nhiên điều Mãn Giác nói với ta không có gì vượt khỏi nguyên lý của cái Đạo mà ông đeo đuổi. Bởi vì theo Phật giáo thì vũ trụ này dù hiển hiện ra dưới những sắc tướng mong manh đến thế nào, bản thể của nó vẫn là như như, là cái tâm thường trụ. Sắc tướng thì vô thường, biến diệt trong chớp mắt, nhưng bản thể vĩnh hằng của vũ trụ không bao giờ thay đổi. Vậy, nếu như người tu hành ngộ được điều đó, biết đồng nhất tâm thức của mình với cái Tâm bản thể, cái chân như bất sinh bất diệt của vũ trụ, thì có cái gì nằm trong thế giới lục trần - những thanh, sắc, hương, vị, xúc, pháp - lại có thể làm xao xuyến được tâm thức anh ta, làm cho anh ta rơi vào vòng luẩn quẩn của chúng sinh, mê muội trong mọi nỗi khổ trần thế và bị sự tuần hoàn câu thúc? Anh ta sẽ đạt đến trạng thái tĩnh lặng của cái Tâm, sẽ hồn nhiên như cây cỏ, sẽ tự mình hòa làm một với cái Tâm của vũ trụ, và sẽ cùng với vũ trụ trường tồn...

Đối với Thiền, giác ngộ ra được chân lý về sự trường sinh bất tử đó không bắt buộc phải trải qua một quá trình dài tu hành, trì giới, mà chỉ cần có một bước nhảy vọt trong chiều sâu của tri giác, nhờ vào một hiện tượng bên ngoài (một động tác giơ tay, một tiếng quát v.v...) mà lý trí thông thường không sao hiểu nổi. Có thể nói đó là một cuộc đảo lộn về trực giác, ở đó yếu tố cảm hứng, trạng thái xuất thần, đóng vai trò quan trọng. Cho nên, con người thấm nhuần Thiền đến độ như Mãn Giác đã không dài dòng lý giải mà chỉ dùng hình ảnh một nhành mai đột ngột nở bung 

(7)  “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Đó là Ngài xác nhận rằng tất cả chúng ta đều có sẵn trí vô sư. Đã sẵn có trí vô sư thì chúng ta có thể giác ngộ được. Đức Phật giác ngộ trước, chúng ta khéo tu sẽ giác ngộ sau, nên Như Lai nói Ngài là Phật đã thành, còn chúng ta là Phật sẽ thành.

Như vậy trí hữu sư là do học mà được, còn trí vô sư do tu mà được. Đức Phật nhập định được giác ngộ, ngày nay chúng ta tu tâm được an định cũng sẽ giác ngộ. 

(8) trích từ hai  câu kệ cuối trong mỗi thời kinh tán dương công Đức Phật 




youtube

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2014(Xem: 43956)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4514)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4434)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4365)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6476)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4767)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4182)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25687)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24480)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
17/08/2014(Xem: 21625)
Nhân quả là định luật căn bản xuyên suốt quá trình thành trụ hoại diệt của tất cả chúng sinh từ đời này sang đời khác, cho đến vũ trụ, vạn vật cũng không phải tuần hành, biến dịch một cách ngẫu nhiên, vô lí, mà luôn tuân theo định luật nhân quả. Định luật này không do một đấng thần linh nào, xã hội nào đặt ra cả, mà là luật tự nhiên, âm thầm, lặng lẽ, nhưng luôn đúng đắn, chính xác, hiệu quả vô cùng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]