Hòa thượng Thích Ngộ Tịnh thế danh là Lê Thâu, sinh năm Bính Tuất - 1946 (giấy tờ ghi là 1950), tại làng Trà Trì, xã Hải Xuân, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ngài sinh ra và lớn lên tại "quê hương của tu sĩ", tức trong làng nhà nào cũng có người xuất gia. Thân phụ là cụ ông Lê Đức Sứ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Thạnh. Hòa thượng là người con thứ 3 trong gia đình có 5 anh em.
Thời kỳ mới xuất gia
Vốn sẵn có túc duyên với Phật pháp, năm 1957, dưới sự dìu dắt của chư vị minh sư Thanh Trúc và Chánh Lạc, Hòa thượng đã xuất gia, làm đệ tử Hòa thượng Thích Viên Nhơn, có pháp danh là Quảng Chơn. "Chú điệu Thâu" theo hầu Thầy bổn sư đi khắp các trú xứ để hoằng pháp như chùa Phước Huệ - Bảo Lộc, Phương Bối Am - Đà Lạt, v.v.
Năm 1960, "chú Thâu" (cái tên gắn liền với Hòa thượng suốt gần 20 năm đầu xuất gia, được chư Tăng, Phật tử lúc ấy thường gọi) về tại chùa Chi Hội Phật Giáo Ninh Hòa, vừa tu tập vừa theo học trường tiểu học Pháp Việt; sau đó từ 1963 - 1970, học trung học Trần Bình Trọng. Tư chất "nhà giáo" được un đúc từ nhỏ trong quá trình thị giả sư phụ, trong khoảng thời gian mới học Trung học đệ nhị, đệ tam, chú Sa di Quảng Chơn đã mở những lớp dạy thêm các môn Việt Văn, Anh Văn tại chùa Chi Hội (nay là chùa Đức Hòa).
Trường Trung Học Bồ Đề Ninh Hòa được thành lập từ năm 1958, dưới sự sáng lập và điều hành của quý thầy Ngộ Giác, Tịnh Mãn, Viên Nhơn, .v.v. Trong thời gian thầy Tịnh Minh làm hiệu trưởng, Hòa thượng đã tham gia giảng dạy cả 2 chi nhánh Bồ đề Ninh Hòa và Bồ đề Dục Mỹ, từ đầu thập niên 1970 cho đến lúc hệ thống tư thục Bồ Đề giải thể năm 1975 .
Thời kỳ hành đạo
Năm 1973, ngài được đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Đại Giới đàn Phước Huệ, do HT. Thích Trí Thủ chánh chủ đàn, tổ chức tại Phật học viện Hải Đức - Nha Trang. Giới đàn này cung thỉnh Hòa thượng Thích Phúc Hộ làm đàn đầu truyền giới. Hòa thượng được ban pháp tự Ngộ Tịnh, hiệu Minh Hạnh. Kể từ đây, Hòa thượng chính thức dự nhập hàng Chúng Trung Tôn, cất bước lên đường thay Thế Tôn hoằng truyền đạo giải thoát.
Cuối năm 1974, cùng sư huynh là HT. Thích Ngộ Tánh thừa tiếp huấn dụ của tôn sư, hai huynh đệ xây dựng thiền thất Viên Ngộ, tại thôn Ninh Ích, xã Ninh An, Ninh Hòa, Khánh Hòa, sau này chính là ngôi già lam, chốn tổ đình của chư Tăng thuộc tông môn Viên Ngộ. Sau năm 1975, đất nước chuyển mình, Hòa thượng cùng sư huynh phát rẫy, làm ruộng, lao động tự túc kinh tế, song song việc đọc sách, nghiên tầm giáo nghĩa để làm nền tảng hoằng dương chánh pháp trong giai đoạn mới. Dù thời cuộc đổi thay, khó khăn gian khổ nhưng những trang kinh sách chẳng rời tay, ánh đèn khuya vẫn sáng một góc thư phòng bên "chùa Cốc".
Khi Ban Đại diện Phật giáo Ninh Hòa thành lập, Hòa thượng suốt một thời gian dài, luôn đảm nhiệm trách vụ hoằng pháp, vốn là bản hoài trong hạnh nguyện của mình.
Năm 1990, khi hai vị huynh đệ Thích Ngộ Tánh, Thích Ngộ Trí rời trú xứ đi trụ trì các chùa Chi Hội, Thiên Bửu, sau đó là Trường Thọ, Hòa thượng lưu xứ nhận trách nhiệm trụ trì, chăm sóc ngôi tổ đình Viên Ngộ cho đến lúc mãn duyên. Song song đó, Hòa thượng vẫn luôn tích cực đồng hành cùng huynh đệ và chư Tăng huyện nhà trong công tác thúc đẩy hoằng pháp, giáo dục, phát dương đạo giải thoát ngày thêm xán lạn trên quê hương Ninh Hòa. Hòa thượng là Giáo thọ chính, đứng lớp dạy giáo lý cho cư sĩ tại gia. Các buổi giảng thường xuyên được diễn ra, như lớp giáo lý vào các đêm thứ 2, 4, 6, thời giảng Pháp Hoa chiều chủ nhật tại chùa Chi Hội; các lớp bổ túc giáo lý cho tiểu điệu nhân mùa Kiết hạ. Các pháp thoại tu Bát quan trai mỗi nửa tháng ở Ninh Hòa và các buổi lễ sám - pháp thoại các kỳ sóc, vọng ở Dục Mỹ luôn diễn ra đều đặn. Bên cạnh đó, tổ chức Gia Đình Phật Tử cũng luôn được Hòa thượng quan tâm phát triển, tạo điều kiện sinh hoạt mạnh dần trở lại.
Tham gia công tác Phật sự cấp tỉnh, trong suốt nhiều nhiệm kỳ từ năm 2005 đến 2017, Hòa thượng luôn đảm trách chức vụ trưởng ban Văn Hóa Phật giáo tỉnh Khánh Hòa. Với cương vị đầu ngành Văn hóa Phật Giáo của tỉnh, Hòa thượng đã phối hợp cùng ban Văn Hóa Phật giáo Trung ương tổ chức thành công các sự kiện văn hóa lớn: - Tuần lễ Văn hóa Phật giáo toàn quốc tại thành phố Nha Trang, năm 2009. - Đại lễ tưởng niệm 50 Bồ tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân tại chùa Long Sơn, thành phố Nha Trang, năm 2013.
Năm 2017, khi HT. Thích Ngộ Tánh vào Nha Trang để đảm nhiệm công tác Phật sự tỉnh Khánh Hòa, Hòa thượng đảm trách chức vụ trưởng ban Trị sự GHPG thị xã Ninh Hòa, để thừa tiếp điều hành Phật sự tại địa phương.
Những công hạnh chính
"Sự sư" - thiên thứ hai trong 24 thiên Oai Nghi luôn thấm nhuần trong công hạnh xuất gia từ những ngày đầu của Hòa thượng. Thị giả hầu thầy luôn được Hòa thượng đề cao trong thời khóa mỗi ngày và trong những lời giáo huấn đệ tử sau này. Từ những năm còn làm điệu để chỏm, Hòa thượng đã được theo dấu tôn sư trên vạn nẻo đường hành cước du phương hóa đạo. Khi đun nước, lúc têm trầu, lo lắng chu toàn cho Thầy từ giấc ngủ áo quần đến sách đèn nghiên bút. Vào những năm 1971, 72, khi tôn sư lâm bệnh, Hòa thượng đã vào Quảng Hương Già Lam - Sài Gòn, hầu cận nuôi bệnh, phụng dưỡng cẩn mật trọn những năm tháng cuối đời, cho đến khi tôn sư viên tịch, hầu nhục thể về an trí tại bảo tháp uy nghiêm trên đồi Trại Thủy - Nha Trang.
Với bản tính thông tuệ, thích đọc sách và thường nghiên tầm giáo điển, Hòa thượng luôn thể hiện là hình mẫu của một nhà sư phạm, một bậc giáo thọ nghiêm khắc, giản dị, chuẩn mực, uy nghiêm. Rất nhiều thế hệ học trò cả xuất gia lẫn tại gia đều được thấm nhuần Phật pháp, thọ hưởng tinh hoa Phật học chân chánh từ sự truyền trao của ngài.
Từ những năm 2000, Hòa thượng tham gia ban Giảng huấn, giảng dạy tại trường Trung Cấp Phật Học tỉnh Khánh Hòa, các khóa III, IV, V. Song song công tác hoằng pháp và giáo dục, Hòa thượng cũng rất thiện xảo lồng ghép Phật pháp vào việc điều hành các lễ hội Phật giáo, với chủ trương "hoằng pháp trong mọi tình huống". Suốt mấy thập niên liền, Hòa thượng luôn là MC chính điều hành tất cả các buổi lễ lớn nhỏ tai huyện Ninh Hòa và một số địa phương khác. Bên cạnh đó, các buổi lễ kỳ an, kỳ siêu tại tư gia Phật tử, dưới sự quyền biến khéo léo của Hòa thượng, ngài luôn mở ra cơ hội cho gia chủ được lắng nghe nhiều hơn, và hiểu biết nhiều hơn theo hướng chánh tín Tam Bảo.
Từ năm 1993, các Đại giới đàn do Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa tổ chức, với sự uyên bác Phật học và nghiêm túc uy nghi của mình, Hòa thượng luôn được giao công tác giáo thọ khảo hạch và quản giới tử. Hòa thượng luôn tâm niệm và sách tấn đàn hậu học rằng "lớn hay nhỏ đều là Phật sự, phụng sự ở đâu hay phụng sự cho ai đều có giá trị như nhau", cho nên ngài luôn hoàn thành các công tác mà Giáo hội giao phó.
Mang hành trạng của một bậc thầy tinh cần khắc kỷ, một vị giáo thọ chuẩn mực thông thái, một nhà hoằng pháp thiện xảo đa năng, Hòa thượng đã cùng hai huynh đệ giáo dưỡng và đào tạo nên nhiều thế hệ tăng tài, có thể kể như các vị: Nhuận Hải – Đạo Tâm, Nhuận Thông – Đạo Minh, Nhuận Quang – Đạo Nguyên, Nhuận Dung – Đạo Tuyên, Nhuận Đức – Đạo Thuyên, v.v. Bên cạnh đó, một số tỳ kheo trẻ là đệ tử đích truyền của Hòa thượng có đầy nhiệt huyết hoằng dương, xây dựng đạo tràng, mở mang Phật chủng khắp nơi trong và ngoài nước, như Nhuận Thiện - Tường Thanh ở Hàn quốc, Nhuận Hà - Tường Nghiêm ở Nhật Bản, v.v.
Xứng đáng bậc Upadhyaya, vị Thân giáo sư, người tạo ra sức tu hành cho đệ tử, vị trưởng lão có trí tuệ và đầy đủ đức độ, tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc năm 2012, ngài được đức Pháp chủ Thích Phổ Tuệ tấn phong, liệt vào hàng Giáo phẩm Hòa Thượng.
Vượt thắng bệnh duyên và Viên tịch
Năm 2011, Hòa thượng mắc phải chứng bệnh ung thư vòm hầu, đã tiến hành xạ trị để triệt tiêu khối u nhỏ nằm sâu trong phần đầu. Theo báo cáo y khoa của các bác sỹ, chứng bệnh này nếu trị được thì bệnh nhân cũng chỉ sống được nhiều lắm là 6 năm. Vì ảnh hưởng của hơn 30 tia laser bắn vào phụ cận vùng não, nên thân tứ đại của Hòa thượng cũng theo đó biểu hiện tướng suy hao. Từ hình ảnh một người cường tráng khỏe mạnh biến thành một lão tăng ốm gầy, phần da và răng cũng bị biến chuyển xấu. Thể xác tuy là thế, nhưng tinh thần của Ngài lại thể hiện hoàn toàn trái ngược. Hòa thượng luôn nuôi dưỡng tinh thần lạc quan, và truyền cảm hứng cho rất nhiều người khi đến thăm viếng, vấn an sức khỏe. Như một phép mầu, tinh thần dõng mãnh vượt thắng bệnh duyên một cách lạc quan của Hòa thượng đã giúp ngài vẫn an nhiên mỗi ngày, thân tứ đại vẫn điều hòa và thong dong cùng tuế nguyệt.
Tuy nhiên, duyên phần ở cõi Ta Bà cũng đến hồi viên mãn. Ngày 31/7/2021, thân tứ đại biến chuyển, không còn được điều hòa như ý muốn, cơ quan hô hấp từ chối hỗ trợ Người kiên trì ý chí. Hai hôm sau, vào lúc 01 giờ 45 phút, ngày 02/8/2021 (tức 24 tháng 6 năm Tân Sửu), Hòa thượng đã nhẹ nhàng từ bỏ phàm thể, đóng khép lại hành trình 75 mùa xuân thu hoán chuyển, viên tròn hạnh nguyện 48 hạ lạp tinh nghiêm. Ngày viên tịch, khi tất cả con người và cỏ cây thu mình trong biệt cảnh, Hòa thượng một mình độc bộ vân du, mỉm cười đi vào trạng thái tâm hành im lặng tuyệt đối, hòa điệu cùng sự yên tĩnh đến lạnh lùng của quả địa cầu đang bị tổn thương vì đại dịch.
Kính lạy Giác linh Hòa thượng nối dòng Lâm Tế đời thứ 45, trụ trì tổ đình Viên Ngộ, tôn danh Thích Ngộ Tịnh, húy Quảng Chơn, hiệu Minh Hạnh, rải lòng hiểu thương chứng giám.
Môn đồ pháp quyền đồng phụng soạn. (xem tiếp)
Đúng 6 giờ 30, Hòa thượng Thích Nguyên Quang, Ủy viên Hội đồng Trị sự, Phó ban Trị sự Phật giáo tỉnh Khánh Hòa, đương vi chủ sám tang lễ cùng chư Tăng hộ niệm và môn đồ pháp quyến đã thực hiện những nghi lễ phát hành, cung thỉnh kim quan Hòa thượng Thích Ngộ Tịnh đến nơi trà-tỳ.
Tang lễ tổ chức giới hạn người tham dự trong hoàn cảnh dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp
Vì tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp, toàn tỉnh đang thực hiện các Chỉ thị 15, 16 về phòng chống dịch bệnh nên tang lễ Hòa thượng Thích Ngộ Tịnh được tổ chức đơn giản, gói gọn và đảm bảo các nguyên tắc phòng dịch.
Sau lễ trà-tỳ tại nhà Hỏa táng Nghĩa trang Phía Bắc TP.Nha Trang, nhục thân Hòa thượng sẽ được nhập bảo tháp tại chùa Viên Ngộ (thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa), nơi Hòa thượng đã dày công vun bồi những ngày còn trụ thế.
Những công hạnh của Hòa thượng vẫn mãi là tấm gương sáng cho đàn hậu học. Toàn thể Tăng Ni, Phật tử tỉnh Khánh Hòa đồng bái vọng, góp chút tâm thành tiễn ngài về cõi Tây phương.
Hình ảnh di quan, trà-tỳ kim quan Hòa thượng tân viên tịch
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem).
Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc.
Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông.
Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này.
Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung.
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn.
Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.