Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 2 - Dưới chân núi Già Da (Lesson 2 – At the foot of Mount Gaya)

23/07/202112:24(Xem: 4678)
Bài 2 - Dưới chân núi Già Da (Lesson 2 – At the foot of Mount Gaya)

Bài 2 - Dưới chân núi Già Da

Lesson 2 – At the foot of Mount Gaya

Lecon 2 – Au pied du Mont Gaya

           

 

            Tất Đạt đa đi tham phỏng các nơi và cùng với nhiều đạo sĩ nỗi tiếng luận bàn, song tất cả đều không làm cho Thái tử mãn ý.

            Do đó, Tất Đạt Đa quyết định một mình tu tập Thiền Định dưới chân núi Già Da.

            Tại đây, Ngài được mục nữ dâng cúng sữa tươi và một nam đồng (thiếu niên) làm nghề cắt cỏ đem loại cỏ mềm lót trên đá cho Ngài ngồi.

            Tất Đạt Đa tiếp nhận sữa và cỏ của hai thí chủ trẻ tuổi, Ngài nói: “Vì đồng tình, vì muốn giúp đỡ người khác mà bố thí thì tương lai vị thí chủ ấy sẽ được nhiều phước báo.”

            Năm vị quan viên trước kia xin ở lại tu với Ngài nay đều bỏ đi, vì họ hiểu lầm rằng Tất Đạt Đa đã không chịu đựng nổi lối tu khổ hạnh ép xác…

 

 

            Siddhartha wandered all over the land, studying with many renowned holy teachers, but nothing seemed to satisfy him.

            So Siddhartha decided to go and meditate alone at the foot of Mount Gaya.

            There, he met a shepherdess and a young grass cutter. The shepherdess offered Siddhartha a bowl of fresh milk, and the young boy gave him a bundle of newly cut grass to make a soft seat on the rock where he was sitting.

            Siddhartha accepted the milk and the bundle of grass from these two young benefactors, and said: “You make these offerings because your hearts are compassionate and you are eager to help someone in need. One day, your generosity will be rewarded with much good fortune.”

            The five ministers who had stayed with Siddhartha to seek the truth saw him accepted the milk and grass. They were disappointed and left him, thinking that Siddhartha had forgotten his principles and could no longer stand the starvation and self-torture of their ascetic life…

 

 

            Siddharta erra partout dans le pays, étudiant avec nombre de sages de renom, mais rien ne paraissait le satisfaire.

            Aussi, Siddharta alla méditer seul au pied du Mont Gaya.

            Là, il recontra une bergère et un jeune couper d’herbe. La bergère offrit à Siddharta un bol de lait frais et le jeune garcon lui donna une botte d’herbe fraichement coupée pour lui faire un siege confortable sur le rocher où il était assis.

            Siddharta accepta le bol de lait et la botte d’herbe de ces deux jeunes bienfaiteurs et dit: “Vous me faites ces dons parce que vos coeurs sont pleins de compassion et que vous êtes désireux d’aider les gens dans le besoin. Un jour, votre generosité sera récompensée  avec beaucoup de bonne fortune.”

            Les cinq ministers qui étaient restés avec Siddhartha pour rechercher la verité le virent accepter le lait et l’herbe. Ils furent décus et l’abandonnèrent, pensant que Siddharta avait oublié ses principes et ne pouvait pas rester plus longtemps sans manger ni contiuer à se torturer par une vie d’ascète…

 

**0**

 

-       Không có tranh vẽ cho bài 2.

-       No picture for lesson 2.

(Đánh máy - Diệu Vân)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2011(Xem: 4447)
Tôi có ý nghĩ viết thành tập sách này vào đầu năm nay 97, nhân kỷ niệm mười năm tôi được xuất gia học đạo. Mười năm thường là cái mốc thời gian đáng nhớ cho những sự cố gì xảy ra trong một đời người. Sự cố ấy mang ý nghĩa của đổi thay dù sự đổi thay đó mang tính cách thế tục hay xuất thế. Trong đạo thầy đã dạy tôi rằng: "Sau một thời gian tu tập con cần nên cứu xét lấy mình, ngắn thì mỗi năm, dài thì năm năm, mười năm. Sau khoảng một thời gian dài ấy mà con thấy có niềm tin hơn, ý chí hơn trong sự tu tập thì đó là con đã tiến bộ. Giảm niềm tin, thiếu tinh tấn chính là con đã lui sụt. Tu tập mà không tiến bộ tức là thua sút, yếu hèn, phụ bạc công ơn thầy tổ nuôi nấng và sự thọ nhận cúng dường của đàn na thí chủ".
04/11/2011(Xem: 4278)
Tiếng súng nổ từ xa, dù lớn dù nhỏ, vẫn là chuyện thông thường không thắc mắc đối với dân Quảng Ngãi trong thời chiến tranh. Nhưng đêm nay, đêm mồng một Tết, tiếng súng nổ bên tai làm cả nhà tôi bàng hoàng. Không ai bảo ai đều giật mình thức giấc rồi chạy ào xuống nhà núp dưới chân cầu thang. Tiếng súng nổ gần quá, tôi nghe cả tiếng hô hoán: “Tiến lên!” giọng Bắc rặc của một người chỉ huy nào đó. Trời! Không lẽ mặt trận đang diễn ra trong thành phố? Tim tôi đập loạn xạ, dù mồ hôi vã ra, răng tôi vẫn đánh bò cạp. Tôi rúc vào lòng năm chị em gái và ba má của tôi. Tiếng khóc thút thít vì sợ hãi muốn oà ra nhưng tôi cố dằn lòng sợ địch quân nghe thấy. Ầm! Một trái pháo kích rớt trúng nhà phía sau của tôi. Ngói bể rơi loảng xoảng, khói đạn bay mịt mù. Tôi chỉ kịp thét lên, ôm cứng lấy má tôi, hồn như bay khỏi xác. Đó là năm Mậu Thân 1968, lúc tôi 14 tuổi.
27/10/2011(Xem: 19714)
Bùi Giáng, Người viết sách với tốc độ kinh hồn
12/10/2011(Xem: 19960)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
01/10/2011(Xem: 7475)
Hàng ngũ phật tử thường được chia là phật tử tại gia và phật tử xuất gia. Các phật tử tại gia thường được gọi là cư sĩ. Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cư sĩ nổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém gì các vị đã xuất gia. Có nhiều vị cư sĩ nổi tiếng nhưng bài này chỉ xin nhắc đến ông Duy Ma Cật, bà hoàng hậu Thắng Man, cư sĩ Huệ Năng lúc chưa xuất gia và sau đó đến gia đình ông Bàng Uẩn.
25/09/2011(Xem: 3928)
Lời hát ru nhẹ nhàng mà trầm buồn da diết ấy đi vào trong cả giấc mơ của Hiền. Bao lần chị giựt mình thảng thốt ngồi bật dậy… ngơ ngác nhìn quanh. Chẳng có gì khác ngoài bóng đêm lạnh giá bao trùm hai dãy xà lim hun hút. Chốc chốc vẳng lại tiếng thạch sùng chặc lưỡi, tiếng chí chóe của mấy chú tí ưa khuấy rối trong xó tối. Và cả tiếng thở dài của ai đó dội qua mấy bức tường xanh rêu im ỉm…
24/09/2011(Xem: 2946)
Ngày xưa có một chàng trai tên là Na Á. Anh mồ côi cha từ sớm, ở với mẹ già. Nhà Na Á nghèo, anh phải làm nghề đánh cá để nuôi thân, nuôi mẹ.
24/09/2011(Xem: 3006)
Một hôm em bé ngồi trong bóng cây trú nắng, gió cũng thổi mát quá, em ngủ quên, đến lúc thức dậy, thì đàn trâu đã đi mất. Em tìm khắp cánh đồng mà chẳng thấy.
21/09/2011(Xem: 3000)
Tờ Chú (có nghĩa là anh đen) nghèo nhất làng. Họ nghèo lắm, nghèo đến nỗi không có một con dao mẻ để phát nương, một cái thuổng để đào củ mài.
21/09/2011(Xem: 2804)
Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]