Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

258. Thiền Ông Đạo Giả & Thiền Sư Sùng Phạm (đời thứ 11 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi) 🌷🌸🏵️🌻🌼💐🌹🥀🌷🌸🏵️

20/07/202109:40(Xem: 20920)
258. Thiền Ông Đạo Giả & Thiền Sư Sùng Phạm (đời thứ 11 của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi) 🌷🌸🏵️🌻🌼💐🌹🥀🌷🌸🏵️


Thiền Ông Đạo Giả (902 - 979)
(Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

Thiền sư Sùng Phạm (1004 - 1087)
(Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)


Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Bài trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâ & Cư Sĩ Huệ Hương
Lời diễn đọc: Cư sĩ Diệu Danh







Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch Sư Phụ,


Hôm nay chúng con được học về Thiền Ông Đạo Giả (902-979) và Thiền Sư Sùng Phạm (1004-1087).

1/ Thiền Ông Đạo Giả (902-979). Ngài thuộc đời thứ mười một dòng Thiền Ni Đa Lưu Chi. Tiểu sử của Ngài rất ngắn.
Sư họ Lữ quê làng Cổ Pháp, tuổi nhỏ đã không thích việc đời. Sau theo Đinh trường lão xuất gia và đắc pháp.
Sư trụ trì ở chùa Song Lâm, làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức. Niên hiệu Thái Bình thứ mười triều Đinh (979) nhằm năm Kỷ Mão, Sư an nhiên thị tịch, thọ 78 tuổi.


Năm 979 cũng là năm cuối của thời đại vua Đinh Tiên Hoàng, vị vua đầu tiên giành được độc lập và đặt ra nước Đại Cồ Việt, vua Đinh Tiên Hoàng băng hà cùng năm 979.


Sư Phụ diễn ngâm thơ tán thán công hạnh Thiền Ông Đạo Giả của Thầy Chúc Hiền, rất hay và ý nghĩa:


Song Lâm thiền tự cảnh thanh bình
Sớm tối trưa chiều chuông vẳng thanh
Đạo Giả trang nghiêm hành diệu pháp
Thiền Ông tĩnh tại hướng huyền linh
Phù Ninh một thuở còn lưu dấu
Thiên Đức bao thu vẫn ngát tình
Đạo Hạnh Thiền Ông ghi sử sách
Đèn thiền mãi sáng ánh quang minh.

2/ Thiền Sư Sùng Phạm (1004-1087). Ngài thuộc đời thứ 11, dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Tiểu sử của Sư cũng rất ngắn.

Sư họ Mâu, cùng họ Mâu Ni, dáng vẻ mạnh mẽ to lớn, đặc biệt hai trái tai dài thòng đến vai. Sư Phụ cho biết, trái tai dài là một tướng đẹp thứ 54 trong 80 vẻ đẹp của Đức Thế Tôn, và Cụ Tâm Thái cũng có được tai dài giống ông ngoại Tâm Đức, thọ 82 tuổi. Tai dài là phúc tướng đôn hậu, điềm đạm.


Sau khi xuất gia, Sư đến tham vấn với ngài Vô Ngại ở Hương Thành, Sư được truyền tâm ấn. Vào thế kỷ thứ 11, Sư dạo khắp nước Thiên Trúc sớm nhất để cầu học hỏi sâu rộng.

Mãn 9 năm Sư trở về nước gồm thông giới định. Ngài có viết tác phẩm Lý Hoặc Luận giải thích về đạo Phật, ngài bỏ nguồn gốc đạo Lão, Tứ thư Ngũ kinh, Đạo Đức kinh. Ngài có ghi những câu chỉ trích thành tập Lý Hoặc Luận gồm 37 câu hỏi cho những người chống đối đạo Phật. Ngài được xem như một trong những nhà truyền bá đạo Phật đầu tiên ở Việt Nam.

Về sau, Sư trụ trì chùa Pháp Vân làng Cổ Châu, Long Biên, Sư thuyết pháp giáo hoá, học giả các nơi quy hướng rất đông.

Sư Phụ có nhắc Sư ông Nhất Hạnh giải thích ngài Mâu Tử là tu sĩ Phật giáo, căn cứ trên tài liệu lịch sử, trong những thời nói pháp của Ngài, có nhiều đệ tử đảnh lễ xin quy y Tam bảo và được cho pháp danh.

Vua Lê Đại Hành nhiều phen thỉnh Sư vào cung để thưa hỏi Huyền chỉ. Vua lấy lễ đãi Sư rất trọng hậu. Sau khi vua Lê Đại Hành băng hà, Sư tiếp tục đặt nền tảng văn hoá Phật giáo, xây dựng Quốc Tử Giám, là đại học đầu tiên của nước Việt Nam, qua 4 triều đại nhà Lý:  Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông.

Vua Lý Nhân Tông lên ngôi lúc 7 tuổi, là con cầu đảo, Sư phụ kể câu chuyện ly kỳ này: Vua cha Lý Thánh Tông năm 40 tuổi chưa có con để nối ngôi, ngài đến chùa Dâu cầu xin và trên đường về, ngài gặp Ỷ Lan, cô gái hái dâu xinh đẹp, ngài cho mời về hoàng cung làm ái phi, kết quả có hậu, Lý Nhân Tông chính là con của cô gái hái dâu này.

Năm Quỷ Hựu thứ ba triều Lý (1087), nhằm năm Đinh Mão, Sư viên tịch, thọ 84 tuổi. Vua Lý Nhân Tông có làm bài kệ truy tặng Sư:



Sùng Phạm cư Nam quốc

Tâm không cập đệ qui
Nhĩ trường hồi thuỵ chất
Pháp pháp tận ly vi.

HT Thích Thanh Từ dịch:


Nước nam ngài Sùng Phạm
Tâm không thì đậu về
Tai dài hiện tượng lạ
Pháp pháp thảy nhiệm mầu.


Sư Phụ giải thích, tâm không là tâm không còn vô minh phiền não là mặt trời trí tuệ tự tỏa sáng.


Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh Thiền Sư Sùng Phạm của Thầy Chúc Hiền, rất hay:


Nước Nam Sùng Phạm bậc thiền tăng
Tướng hảo tai dài phước thọ khang
Thọ ấn tham phương học hạnh tổ
Xiễn thiền hoằng pháp độ dương trần
Pháp Vân đạo nghiệp long hưng thạnh
Sùng Phạm tăng nhân sáng rạng quang
Cảm hạnh cao ngời vua tán kệ
Sử vàng ghi dấu đấng chân nhân.



Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng bài pháp về Thiền Sư Sùng Phạm, ngài đặc biệt có trái tai dài chấm tới vai, biểu trưng cho cuộc đời phúc hậu của Sư, và nhất là sự góp công đặt nền móng văn hoá Phật giáo của Sư qua năm triều vua và được vua Lý Nhân Tông, một vị vua anh minh, làm kệ truy tặng sự đạt đạo của Sư qua hành trạng “Tâm không thi đậu về”.


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
( Montréal, Canada).






258_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Sung Pham

Đời thứ 11 dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi Thiền Sư
đã đóng góp to lớn trong Lịch sử dân tộc và Phật Giáo:
Thiền Ông Đạo Giả (902 - 979) (Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Sùng Phạm (1004 - 1087) (Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Kính dâng Thầy bài trình pháp hôm nay sau khi đã thu nhận sự uyên bác của Thầy về lịch sử và Phật Giáo. Đến bây giờ con mới hiểu tại sao Thầy chuyên giảng dạy Lịch Sử Phật Giáo Ấn, Trung, và Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trong thời hiện đại tại hải ngoại . Kính bạch Thầy, phải chăng Thầy đang nối gót Sư Ông Làng Mai và HT Thích Thanh Từ để viết lại Sử Liệu Phật Giáo vào thế kỷ 21 ? Kính tri ân Thầy với bài pháp thoại quá tuyệt vời . Kính đảnh lễ Thầy và kính chúc Thầy pháp thể khinh an, HH


Trong “Lịch sử phật giáo Việt Nam” viết: “Khơi dậy và giáo dục ý thức độc lập cho toàn dân là một trong những thành công rực rỡ của nền giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam mà người đi đầu là Định Không và Đinh La Quý”. Với Tư tưởng địa linh do Định Không đề ra, La Quý hoàn thiện và phổ biến tiếp tục với Thiền Ông Đạo Giả....đã cung cấp một nền tảng lý luận vào thời điểm ấy. Đây là một đóng góp to lớn với lịch sử dân tộc và Phật giáo".
(Đinh La Quý với thuyết địa linh đã yểm trừ những thế đất thiên tử" của Cao Biền, tự mình hoặc bảo người đi lấp lại những chỗ đất mà Cao Biền đã đào bới. Trước khi viên tịch, ông còn dặn lại sư Thiền Ông:Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép, yểm dấu trong đó, chớ cho người thấy.)
Còn Ngài Sùng Phạm dã cống hiến những huyền chỉ,
Kế sách trị dân với nền tảng Đạo Pháp giúp Vua Lê Đại Hành ....




Kính đa tạ Giảng Sư:
Trân quý lắm những lần nghe pháp thoại
Tiểu sử Bậc Minh Vương lồng trong tích truyện Tổ Sư Thiền
Chiều hướng tâm linh được kích hoạt ...thượng thượng duyên
Một chi tiết nhỏ biểu hiện nhân cách, lối tu được giải rõ !


Kính bắt đầu ...Ngài Thiền Ông Đạo Giả (1)
Đại Cồ Việt sau chiến thắng hiển hách, quá mệt nhoài
Quốc gia khắp nơi chưa hiển lộ nhiều anh tài
Niên hiệu Thái Bình, Vua băng hà cùng lúc Ngài Thị Tịch


Trong khi đó ...
... Ngài Sùng Phạm chứng kiến 5 triều đại sử lịch (2)
Chỉ vài chi tiết trong hành trạng quá ngạc nhiên (3)
Dòng dõi và vẽ đẹp thứ 54 ...bậc Thánh hiền
Bài truy tán tặng cho Ngài....kéo theo trang sử sách (4)


Vua Lý Nhân Tông, Thái Uý Lý Thường Kiệt đại thắng quân Tống ! (5)
Kính tri ân Giảng Sư ... giúp tìm về nguồn cội chân nguyên
LÝ HOẶC LUẬN ích lợi nhiều khi thông hiểu Phật .. Thiền (6)
Giải thích những mê lầm Nho , Lão ... đạt thu Chánh Kiến !


Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát !


Huệ Hương
Melbourne 20/7/2021

(1) Thiền Ông Đạo Giả (902 - 979) (Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

Sư họ Lữ quê làng Cổ Pháp, tuổi nhỏ đã không thích việc đời. Sau theo Đinh trưởng lão xuất gia và đắc pháp.

Sư trụ trì ở chùa Song Lâm làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức. Niên hiệu Thái Bình thứ mười triều Đinh (979) nhằm năm Kỷ Mão, Sư viên tịch, thọ bảy mươi tám tuổi.

(2)

Với tuổi thế tục Thiền sư Sùng Phạm (1004 - 1087) đã chứng kiến 5 triều đại

1- Cuối đời nhà Tiền Lê - Vua Lê Long Đỉnh (986-1009)

2- Vua Lý Thái Tổ tên thật là Lý Công Uẩn sinh năm 974 mất năm 1028, hưởng thọ 55 tuổi. Lên ngôi tháng 10 âm lịch năm 1009 khi đó 35 tuổi, trị vì 19 năm (1009 – 1028).

3- Vua Lý Thái Tông tên thật là Lý Phật Mã (tên khác là Lý Đức Chính) sinh năm 1000 mất năm 1054, hưởng thọ 55 tuổi. Lên ngôi năm 1028 khi đó 28 tuổi, trị vì 26 năm (1028-1054). .

4- Vua Lý Thánh Tông tên thật là Lý Nhật Tôn sinh năm 1023 mất năm 1072, hưởng thọ 50 tuổi. Lên ngôi năm 1054 khi đó 31 tuổi , trị vì 18 năm (1054 – 1072).

5- Vua Lý Nhân Tông tên thật là Lý Càn Đức sinh năm 1066 mất năm 1127, hưởng thọ 62 tuổi. Lên ngôi năm 1072 khi đó mới có 6 tuổi, trị vì 55 năm (1072 – 1127).

(3) Sư họ Mâu, dáng vẻ mạnh mẽ to lớn, hai trái tai thòng đến vai. Xuất gia xong, Sư đến tham vấn với ngài Vô Ngại ở Hương Thành. Sau khi được tâm ấn, Sư dạo khắp nước Thiên Trúc để cầu học hỏi sâu rộng. Mãn chín năm Sư trở về nước gồm thông giới định.

Về sau, Sư trụ trì chùa Pháp Vân làng Cổ Châu, Long Biên thuyết pháp giáo hóa, học giả các nơi qui hướng rất đông.

Hoàng đế Lê Đại Hành nhiều phen thỉnh Sư vào cung để thưa hỏi huyền chỉ. Vua lấy lễ đãi Sư rất trọng hậu.

Chú ý vẻ đạp thứ 54 của Đức Phật là hai trái tai thòng đến vai là một Phước tướng

Dải tai nên ngả về phía trước, giống như hòn minh châu hướng ra biển, đường viên của vành tai phải rõ ràng, nếu rủ xuống bờ vai là đẹp nhất. Nhân tướng học chỉ Rốc chủ mệnh sang hiển, có quyền lực và địa vị đến một cách tự nhiên , tánh tình điềm đạm bao dung , người đôn hậu và sống thọ

(4) Nhân bài truy tán Ngài của Vua Lý Nhân Tông

Vua Lý Nhân Tông có làm bài kệ truy tặng Sư:

Nước Nam ngài Sùng Phạm

Tâm không thi đậu về

Tai dài hiện tướng lạ

Pháp pháp thảy nhiệm mầu.

(Sùng Phạm cư Nam quốc

Tâm không cập đệ qui

Nhĩ trường hồi thụy chất

Pháp pháp tận ly vi.)

Ta biết thêm được Triều đại Vua Lý Nhân Tông là một Triều dại chứng kiến sự phát triển của nền giáo dục khoa bảng Đại Việt. Mùa xuân năm 1075, ông mở khoa thi Tam trường (còn gọi là Minh kinh bác học) để chọn người có tài văn học ra giúp nước. Đây là khoa thi đầu tiên của nền khoa cử Việt Nam. Triều đình chấm đỗ 10 người, thủ khoa là Lê Văn Thịnh được vào cung dạy học cho vua.[9]

Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên ở Việt Nam, và chọn những văn thần hay chữ vào giảng dạy. Cùng năm đó, ông ban chiếu cầu lời nói thẳng.[13][14]

Bên cạnh việc khuyến khích giáo dục Nho học, Lý Nhân Tông cũng là một Phật tử mộ đạo. Ông và Thái hậu Linh Nhân đã cho dựng nhiều chùa tháp trong nước. Nhà vua ban cho họ quyền hành như việc phong nhà sư Khô Đầu làm Quốc sư, tuy nhiên chỉ giới hạn trong việc gợi ý giúp hoàng đế trong việc kiện tụng, việc quốc gia đại sự. Ông còn định các chùa trong nước làm ba hạng đại, trung và tiểu danh lam, cho quan văn chức cao kiêm làm Đề cử[20]. Bấy giờ nhà chùa có điền nô và kho chứa đồ vật, cho nên đặt chức ấy.

Mùa thu, tháng 9 năm 1105, làm hai ngọn tháp chỏm trắng ở chùa Diên Hựu[21], ba ngọn tháp chỏm đá ở chùa Lãm Sơn. Bấy giờ vua sửa lại chùa Diên Hựu đẹp hơn cũ, đào hồ Liên Hoa Đài, gọi là hồ Linh Chiểu. Ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chạy chung quanh, ngoài hành lang lại đào hồ gọi là hồ Bích Trì, đều bắc cầu vồng để đi qua. Trước sân chùa xây bảo tháp. Hàng tháng cứ ngày rằm, mồng một và mùa hạ, ngày mồng 8 tháng 4, xa giá ngự đến, đặt lễ cầu phúc, bày nghi thức tắm Phật, hàng năm lấy làm lệ thường.

Năm 1117, Nhân Tông theo lời Thái hậu, ra quy định cấm giết trâu bò bừa bãi: ai mổ trộm trâu bị phạt 80 trượng và tội đồ làm người hầu trong quân đội; người giết trâu và ăn trộm trâu đều phải bồi thường; hàng xóm biết mà không tố cáo cũng bị phạt 80 trượng. Bấy giờ đất nước thường được mùa, thường trúng mùa to, khi hạn hán mất mùa thường phát chẩn kho lương, giảm tô dịch, đất nước nhanh chóng cường thịnh. Nhân Tông rất thường hay xem gặt lúa ở các nơi, cũng như xem bắt voi, lễ hội,... để tỏ rõ sự cường thịnh của Đại Việt lúc đó.

(5)

Khi Nhân Tông lên ngôi, nhà Tống muốn nhân lúc vua Lý còn nhỏ để mang quân đánh chiếm. Nhờ vào khả năng quân sự của Lý Thường Kiệt, nước Đại Việt đã đứng vững trong cuộc chiến với quân đội nhà Tống.

Năm 1075, ngay khi nhà Tống đang tập kết lực lượng ở Ung Châu chuẩn bị tiến sang, Lý Thường Kiệt chủ động mang quân đánh sang đất Tống trước. Sang đầu năm 1076, quân Lý hạ thành Ung châu.

Năm Bính Thìn (1076), nhà Tống cử Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại binh sang xâm lược Đại Việt. Quân đội nhà Lý dưới sự chỉ huy của Phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt đã đánh bại được đội quân nhà Tống tại trận tuyến trên sông Như Nguyệt.Oong đã liên tiếp phá tan quân Tống ở 3 châu Ung, Khâm, Liêm (đất Tống) và sông Như Nguyệt (đất Việt). Sau năm 1077, giữa Việt và Tống không còn cuộc chiến lớn nào. Trong khi đó các nước Chiêm Thành, Chân Lạp thần phục Đại Việt, thường gửi sứ sang cống.

(6) Do vì Thiền Sư Sùng Phạm dòng dõi họ Mậu nên sử gia đã cho chi tiết về Ngài Mậu Tử và bộ Lý hoặc luận với 37 câu vấn đáp như sau

Lý Hoặc Luận (chữ Hán: 理惑論) có nghĩa là bộ luận lý giải những điều mê lầm của một số người không hiểu đạo Phật, do Mâu Tử (người Thương Ngô, nay thuộc Quảng Tây, Trung Quốc) viết bằng chữ Hán vào cuối thế kỷ 2[1] nhưng năm nào thì chưa rõ [

Trong (hoặc sau) quá trình tu học và truyền giáo tại Giao Châu, Mâu Tử viết Lý Hoặc Luận. Đây là cuốn sách đầu tiên viết về Đạo Phật bằng chữ Hán [3] theo lối vấn đáp, là lối thường được các luận sư Phật giáo ở Ấn Độ dùng để truyền bá giáo lý vào thời kỳ Phật giáo bộ phái, tức vào khoảng 200 năm sau khi Phật Thích Ca nhập Niết-bàn[4].

Trong bài Tựa sách Lý Hoặc Luận, Mâu Tử cho biết "sau khi vua Hán Linh Đế băng hà, thiên hạ nhiễu loạn, chỉ có Giao Châu là yên ổn, các bậc dị nhân phương Bắc đều tới đây, phần lớn đều tin theo thuật thần tiên tịch cốc trường sinh. Hồi ấy có nhiều học giả, Mâu Tử (lúc này đã sang Giao Châu cùng mẹ) thường lấy Ngũ kinh ra vấn nạn, các Đạo gia và thuật sĩ không ai đối đáp cho xuôi được"...Để không bị chê là người "đã phản lại Ngũ kinh mà theo dị đạo", và để không phải tranh luận với họ nữa, vì "nếu mở miệng thì cũng là phi đạo, mà im lặng thì ra như bất lực", Mâu Tử "bèn dùng bút mực, lược dẫn lời thánh hiền mà chứng giải điều mình nghĩ" làm ra sách Lý Hoặc Luận [5].

Cuốn Lý Hoặc Luận gồm 37 câu hỏi đáp, giữa tác giả và những người theo Đạo Nho (chủ yếu) và Đạo Lão (số câu ít hơn, chỉ từ câu 29 trở đi). Đại lược như sau:

Câu hỏi 1 và 2: Hỏi về lai lịch Phật Thích Ca. Theo Mâu Tử, đây không phải là một nhân vật lịch sử thường tình, mà là một bậc siêu nhân, có thần thông biến hóa.
Câu 3 và 4: Hỏi về đạo trong Đạo Phật. Theo Mâu Tử, tính sâu xa và huyền diệu của Đạo không thể nào lấy suy tư và ngôn ngữ thế gian để soi thấu được.
Câu 5: Hỏi đáp về số lượng kinh sách Đạo Phật. Người hỏi cho rằng Kinh Phật quá nhiều làm sao học hết được, không như Đạo Nho chỉ có Tứ thư và Ngũ kinh.
Câu 6, 7, 8, 9 và 10: Trong phần trả lời, Mâu Tử bài bác tư tưởng hẹp hòi, câu nệ của Đạo Nho. Người tăng sĩ cạo bỏ râu tóc, xa lìa vợ con, bỏ tài sản...có nghĩa là bỏ cái sinh diệt để được cái bất diệt. Đạo Nho cho rằng không con thừa kế là tội bất hiếu lớn nhất là không đúng, bởi hiếu đạo không phải chỉ có việc này.
Câu 11 và 12: Hỏi đáp về cách ăn mặc, ứng xử của tăng sĩ ở Giao Châu thời đó. Theo Mâu Tử, người tu hành không được ăn mặc theo các tập quán sang trọng của thế gian. Ăn, mặc và ngủ nghỉ đều phải không đầy đủ, bởi có tri túc thường túc mới có phẩm hạnh cao dày. Khi giao tiếp, tăng sĩ không quỳ, không tỏ vẻ săn đón (câu 11 cho biết tăng sĩ lúc bấy giờ mặc áo màu đỏ và quy tắc ứng xử cũng theo quy cách của tăng sĩ Ấn Độ).
Câu 13 và 14: Hỏi đáp về thuyết tái sinh của Đạo Phật. Trong câu 14, Mâu Tử phê phán tư tưởng "Đại Hán" trong giới Nho sĩ. Bởi họ luôn cho học thuyết của đạo mình là chân lý tuyệt đối, là siêu việt.
Câu 15 và 16: Trong phần trả lời, Mâu Tử nêu tư tưởng "y pháp không y nhân" (theo pháp không theo người). Không vì một số tăng sĩ mê rượu chè, có vợ con, mua rẻ bán đắt, dối trá...mà cho Đạo Phật là xấu, vì đạo nào chẳng có hạng người này.
Câu 17, 18, 19 và 20: Mâu Tử trả lời về các vấn đề như hạnh bố thí, lối thuyết giảng trong Kinh Phật hay dùng ví dụ, hình ảnh...
Câu 21: Mâu Tử xác định Phật giáo du nhập Giao Châu cùng lúc với Phật giáo du nhập vào đất Trung Quốc (đời Hán Minh Đế, năm 67).
Câu 22 đến câu 28: Trong phần trả lời,Mâu Tử so sánh Đạo Phật với Đạo Nho và Đạo Lão. Theo ông, Đạo Phật là mặt trời, là quả thơm ngon.
Câu 29 đến câu 37 (là các câu hỏi đáp giữa tác giả và người đại diện Lão giáo): Trong phần trả lời, Mâu Tử cho rằng các phép thanh đàm, tịch cốc, luyện phép trường sinh...đều do các đạo gia đời sau bày đặt ra. Lão Tử không chủ trương như thế, vì trong sách của ông có câu: "Trời đất còn không tồn tại lâu dài, huống chi là con người".
Cuối sách, người hỏi không có gì thắc mắc nữa, khen ngợi Mâu Tử đã giải đáp đầy đủ về những điều họ chưa nghe bao giờ. Sau đó, người hỏi xin quy y theo Đạo Phật[6]



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/09/2010(Xem: 51080)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
02/09/2010(Xem: 5582)
Sơ lược về Thiền Sư Nguyễn Minh Không, Ông tên là Nguyễn Chí Thành sinh ngày 14/8 năm Bính Thìn (1076) tại Điềm Xá, Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Thiếu thời ngài chuyên làm nghề chài lưới của ông cha. Năm 29 tuổi ngài xuất gia đầu Phật. Ngài đã cùng Thiền sư Giác Hải và Thiền sư Từ Đạo Hạnh làm bạn thân sang Thiên Trúc học đạo với thầy Samôn được phép: Lục Trí Thần.
02/09/2010(Xem: 2527)
Tha phương sinh sống xứ người, tuy thâm tâm lúc nào cũng hướng về quê hương mến yêu, thế nhưng phải chờ đợi đến hơn hai mươi năm trời, sau bao ngày khắc khoải suy tư Thanh mới đột ngột quyết định về nước nghỉ hè hai tháng. Chàng về Saigon viếng thăm họ hàng vài ngày, rồi lang thang du ngoạn khắp các vùng biển từ Sầm Sơn đến Vũng Tàu, sau cùng quay lại Nha Trang, chiều chiều thơ thẩn đi dài dài trên bãi, mắt lơ láo nhìn biển khơi xa xăm với nỗi buồn vời vợi.
02/09/2010(Xem: 2550)
“Khác hơn thường lệ, đôi bạn thân Hiển và Phước, đối ẩm trong lặng lẽ, chẳng ai chịu mở lời. Hiển nâng chung trà hớp từng ngụm, rồi dường như đang bâng khuâng thả hồn theo những chiếc lá phong đỏ thẩm từng chiếc, từng chiếc rụt rè buông rời cành theo làn gió chiều mơn man. Còn Phước thì cầm chung trà, đi tới lui đăm chiêu suy nghĩ, mấy lần định lên tiếng mà cố đè nén chưa chịu hở môi.
02/09/2010(Xem: 2432)
Nghĩa háo hức theo mẹ về Việt Nam thăm viếng quê hương. Sau mấy ngày vui nhộn làm sống lại những kỹ niệm ấu thơ tại Thủ Đức với bà con họ nội xa gần, chàng theo mẹ về quê ngoại, tạm trú tại nhà cậu Út ở thành phố Phan Rang, Ninh Thuận. Vì thuở nhỏ chàng không có cơ hội liên lạc với họ ngoại, nên dù được cậu tiếp đón rình rang, nhưng chàng muốn thân thiết với hai đứa em cô cậu thật khó.
01/09/2010(Xem: 4405)
Dù dòng thời gian đã xoá nhòa những hình ảnh quý gíá xa xưa, dù dấu chân của các Ngài đã rêu phong phủ kín. Nhưng những dấu chân ấy đã đi vào lịch sử nhân gian, dù tiếng nói các Ngài đã hòa vào không gian tĩnh lặng. Nhưng đâu đây vẫn còn vang vọng pháp âm của các Ngài, làm chấn động tâm tư huyết mạch của bao người con Phật. Trong quyển “Những Vị Phật ở Miền Tây Nam Việt Nam” này. Chúng tôi sưu tầm, nghiên cứu và ghi chép trung thực theo lời thuật của các vị Trưởng Lão uy tín; hay các vị trí thức trung hậu; hoặc trích trong các tài liệu giá tri được mọi người tin tưởng.
28/08/2010(Xem: 52842)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 3519)
Tết Mậu Thân 1968, một cái Tết mà Việt Cộng tràn về quá bất ngờ, tôi không thể tin rằng đó là sự thật. Mồng Một Tết vẫn ăn Tết sắm sửa bình thường. Nhà tôi ở lầu 2 trường Đồng Khánh vì tôi làm Giám Học tại trường này, bên hông là Tòa Hành Chánh và Lao xá Thừa Thiên - nơi giam giữ nhiều tù binh Việt Cộng. Cả ngày vẫn tấp nập bà con tới lui thắm viếng, chiều lại còn có con của các nhân viên trong trường đến thăm chuyện trò hàn huyên vui như ngày hội. Tối đến cả nhà còn bàn nhau nên đi ngủ sớm để ngày mai xuống phi trường đón gia đình người anh chồng về Huế ăn Tết.
28/08/2010(Xem: 51956)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567