Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cây Cỏ Gấu

10/06/202108:14(Xem: 4515)
Cây Cỏ Gấu
 


cay co gau


Cây Cỏ Gấu
   
Trần Thị Nhật Hưng


   Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.

   Cỏ gấu không như cỏ thông thường thấp lè tè vẫn thấy. Cỏ gấu cao vài gang tay từ 20-50 cm, lá dài thon gọn như lá lúa, hoa trỗ từng cánh cứng cáp bện vào nhau như những con tít. Đặc biệt cỏ gấu còn có một tên khác rất thơm tho: Hương Phụ. Củ của nó dùng để chữa trị nhiều thứ bệnh rối loạn tiêu hóa, đau ngực sườn, bụng đầy trướng..v.v.. đặc biệt trị các bịnh dành riêng cho phụ nữ.

   Cỏ gấu như thế, thường mọc tràn lan bừa bãi chen chúc với cây cỏ khác trông không thẫm mỹ nên mất đi giá trị thực thụ của nó. Chỉ người làm thuốc mới tha thiết trân quí, ngoài ra đều xem cỏ gấu như loại cỏ dại vô tích sự chỉ đem phiền hà trong con mắt mọi người.

    Trong sân chùa Vạn Phước, nhất là phía những rìa tường hai bên cổng Tam Quan chạy dài ra đến sân sau, cỏ gấu mọc chằng chịt, Thầy Từ An đã chọn cỏ gấu làm hạnh nguyện, nhổ từng ngày, công việc không mấy nặng nhọc, có thể giao cho người làm vườn hay Phật tử đến chùa làm công quả, nhưng đối với Thầy, đây là công việc Thầy phát nguyện tỏ lòng thành thiết tha cầu Phật Trời để hồi hướng công đức cho nghiệp chướng cha mẹ sớm tiêu trừ.

        Thầy Từ An tu từ bé tại một làng quê. Xuất thân trong một gia đình không mấy hạnh phúc nếu không muốn nói là địa ngục trần gian. Nhân duyên đưa Thầy đến chùa cũng từ gia cảnh đặc biệt như thế. Về sinh kế của gia đình không đến nỗi khó khăn. Mẹ có nghề may, dù khách trong làng không được bao nhiêu, mẹ buôn bán thêm từ cây trái, rau củ trong vườn để thêm thu nhập. Cha hành nghề theo thời vụ, ai có việc thì gọi. Cuộc sống như thế nếu bình yên chấp nhận thì cũng an ổn qua ngày. Thế nhưng, thân phụ Thầy đối với gia đình là một người chồng, người cha thiếu trách nhiệm, đã mê cờ bạc, hút xách, bê tha nhậu nhẹt; kiếm được đồng nào chỉ đắp cho bản thân, không đóng góp cho gia đình mà đôi khi còn đòi thêm tiền từ mẹ, đã vậy chỉ trái ý phật lòng, nhất là sau những cơn say trở về nhà, vô cớ cha đánh mẹ một cách tàn nhẫn. Những cuộc cãi vã thường nhật như cơm bữa, hé một tí là thượng cẳng tay hạ cẳng chân. Có hôm cha đánh mẹ đến mang thương tích phải nằm bịnh viện. Sức người có hạn, chịu không nổi, mẹ đành bỏ cả chồng lẫn con về lánh nạn tại nhà cha mẹ ruột. Cuộc đời tưởng thế tạm yên thân. Nhưng không, mẹ nhớ con da diết rồi lại lò mò trở về bên cha để tiếp tục bị ăn đòn tiếp. Nhiều khi Thầy thắc mắc hỏi mẹ, người chồng như thế, sao mẹ lại kết hôn. Mẹ lắc đầu khóc lóc kể lể, âu cũng là số phận, nghiệp chướng. Mẹ về nhà chồng lúc 16 tuổi do gia đình hai bên hứa hôn. Những ngày đầu ở rể “tập” làm rể, cha tỏ ra rất siêng năng chăm chỉ ngoan hiền thu hút niềm tin yêu, thương quí của cả gia đình trong đó có mẹ. Thế mà sau này, lúc về bên nhau, chỉ sau vài năm có lẽ nghiệp quả trỗ ra, cha thay lòng đổi tính hành hạ mẹ làm như trả mối thù từ bao kiếp.

   Những tháng ngày chứng kiến cha đánh mẹ, Thầy lúc đó còn bé không làm sao cứu mẹ được, Thầy chỉ biết đứng khóc, thương mẹ vô vàn, và sau những trận đòn của mẹ, thầy ôm mẹ an ủi. Riêng đối với cha, theo thời gian, tình thương yêu trong Thầy nhạt dần thay vào đó là nỗi sợ hãi cùng với lòng hận thù ghét cay, ghét đắng.

   Hình ảnh tàn bạo, bệ rạc về người cha ăn sâu vào tâm khảm Thầy, đã làm nổi bật hình ảnh một vị sư trang nghiêm trong chiếc áo cà sa màu vàng nhân một ngày, khi đó Thầy vừa 12 tuổi, được mẹ dẫn đi chùa trong dịp lễ Phật Đản và cũng là lần đầu tiên Thầy chiêm ngưỡng hình ảnh uy nghi tuyệt vời đó. Về nhà, nhìn cha, hai hình ảnh tương phản khiến Thầy luôn tưởng nghĩ đến vị sư áo vàng, Thầy như bị...“tương tư“, ngày đêm sáng tối, chiếc áo cà sa vàng như chiếm hữu toàn bộ tâm tưThầy, để rồi một ngày, Thầy thưa mẹ tỏ ý muốn đi tu được như “ông sư mặc áo vàng” và xin mẹ vào chùa ở với Sư phụ.

   Thân mẫu Thầy, vốn người có tâm đạo, để Thầy vào chùa, xa con, bà rất nhớ thương, nhưng nghĩ cảnh đời đau khổ của mình, thấm thía bể khổ thế gian, bà không ngần ngại chấp thuận cho con xuất gia. Riêng cha, ông vốn không quan tâm chuyện gia đình, con cái, nên việc Thầy vô chùa, đi hay ở, làm gì, ông không cần biết. Với ông, chỉ có bia rượu, chỉ khi ngồi trong bàn nhậu, với ai, hay ở đâu mới là điều quan trọng.

  

   Thầy vào chùa, cũng như bao chú tiểu khác, ngoài việc học kinh, tụng kinh, và thỉnh kệ chuông U Minh mỗi tối, Thầy cũng được Sư phụ cho đi học phổ thông ngoài đời. Nhờ tư chất thông minh hiếu học, học giỏi, Sư phụ hoan hỉ đầu tư cho chú Từ An học đến nơi đến chốn. Từ kinh điển nhà Phật cũng như kiến thức trường học ngoài đời chú Từ An đều xuất sắc. Cứ thế chú Từ An từng bước đi lên, từ một làng quê hẻo lánh bước ra tỉnh rồi thành phố rồi với bao kinh nghiệm trên đường tu và sinh hoạt trong chùa, Thầy được cất nhắc đảm nhiệm vai trò phó Trụ Trì của một chùa lớn.

   Từ khi vào chùa tu, học hỏi kinh điển giáo lý nhà Phật, Thầy nhìn và hiểu ra nghiệp quả của cả cha lẫn mẹ. Chắc hẳn hai người có ân oán từ kiếp trước để kiếp này oan gia trái chủ gặp nhau kết làm vợ chồng mới có dịp trả nợ nhau. Nghĩ như thế, mỗi lần tụng kinh, Thầy luôn cầu nguyện mong mỏi cho cha mẹ thoát nghiệp, nhất là người cha thay tính đổi nết để trong nhà được an vui. Như thế vẫn chưa đâu, để tỏ lòng thành thiết tha khẩn cầu Phật Trời cứu độ cho cha mẹ, Thầy còn phát nguyện kiên trì nhổ cỏ gấu, một loại cỏ biểu tượng cho sự phiền não, khổ đau như vứt bỏ phiền toái của cuộc đời.

   Theo Phật giáo, lòng hiếu của một người con không chỉ kính yêu, phụng dưỡng cha mẹ đầy đủ khi cha mẹ hiện tiền, mà ngay khi qua đời phải biết phụng thờ, tưởng nhớ. Ngoài phương diện vật chất, người con hiếu còn đáp ứng tinh thần, sống tốt hữu ích để cha mẹ vui lòng hãnh diện. Nhưng bấy nhiêu thôi chưa đủ, vì Phật giáo quan niệm có kiếp trước kiếp sau, cho nên, không những mình sống tốt mà còn nên hướng dẫn cha mẹ hành thiện, làm lành lánh dữ theo con đường chân chánh, tu thân, Quy y Tam Bảo, gieo trồng phước báu để xây dựng hạnh phúc cho đời này và cả đời sau. Phải làm sao hướng dẫn cha mẹ hiểu và đi trên đường đạo, có như vậy mới là báo hiếu thực sự đúng nghĩa, rốt ráo giúp cha mẹ biết đâu là con đường lành, tìm đến bến giác, thoát vòng sinh tử luân hồi.

   Nghĩ như thế, sau bao đêm thao thức, nhân chùa Vạn Phước tổ chức khóa tu 7 ngày, Thầy Từ An thưa cùng Sư Trụ Trì trình bày mọi nỗi của gia đình rồi xin phép được thực hiện điều mình mong muốn…

                                         ***

      Chuyến xe 16 chỗ, đúng ngày giờ ấn định chuyển bánh lên đường theo kế hoạch của Thầy Từ An.

Khi liên lạc về gia đình, thay vì nói rõ mời gia đình tham dự khóa tu, chưa chắc mọi người chịu tham gia, nhất là thân phụ Thầy, Thầy đã…dối rằng (nói dối không hại ai mà được lợi lạc cho mình, cho người, Phật giáo cho phép), Thầy thuê xe không chỉ riêng người nhà, mà mời cả hàng xóm bạn bè thân thích…du lịch! Nơi ăn chốn ở cũng như mọi chi phí tàu xe đã có Thầy lo hết, mọi người tạm xa lánh làng quê vất vả bao năm, chỉ để thỏa thích làm một chuyến đi chơi cho biết đây biết đó.

    Lời “dụ khị” phác họa về một thế giới…đi rồi sẽ biết, tuyệt vời chưa từng thấy từ trước tới nay trên cõi đời này, chắc chắn sẽ mang lại thích thú an vui trong chuyến đi làm ai ai cũng háo hức.

   Ông Mạnh, thân phụ Thầy Từ An, nhìn bà Mạnh và bà con họ hàng lối xóm lăng xăng bàn bạc chuẩn bị chuyến đi, thêm lời cầu khẩn của vợ, ông cũng thử tham gia một lần cho biết.

    Lần đầu tiên không phải vất vả đầu tắt mặt tối trong sinh kế, được tụ hội trong một chiếc xe nói cười rôm rang hỉ hả, quây quần ăn uống ngon lành mỗi khi xe dừng giải lao, chưa đến nơi mà ai nấy đều cảm thấy hân hoan thoải mái như bước vào một thế giới mới lạ chưa bao giờ được hưởng. Nhưng niềm hân hoan đó chẳng bao lâu đã bị tắt ngúm khi xe dừng hẳn dưới mái chùa Vạn Phước. Mọi người ngơ ngác ngạc nhiên, nhất là ông Mạnh, ông thắc mắc lên tiếng sao lại đưa ông đến thế giới lạ hoắc này mà không phải là một khách sạn như ông tưởng. Hỏa trong ông bắt đầu bốc lên, mặt ông nóng bừng, đỏ gay, ông chưa kịp nổi nóng khua tay đấm vào một cái gì đó cho vơi bực bội, thì kìa, một đoàn người áo lam từ trong chùa bước ra sân, mặt mày ai nấy hiền từ vui vẻ, miệng như luôn nở nụ cười đến bên xe niềm nở chắp tay đón chào ông và phái đoàn. Nhìn thấy họ cung kính lễ phép với những cử chỉ ân cần, bỗng nhiên lòng ông dịu xuống.

- Dạ, chúng con kính chào phái đoàn. Nhà chùa và Thầy Từ An phái chúng con đón các chú các bác và hướng dẫn phái đoàn thăm chùa cùng sinh hoạt tại đây. Các chú, bác lấy va ly và theo chúng con vào chùa ạ.

   Riêng ông Mạnh thì được thầy Từ An đặc cách một Phật tử cùng trang lứa với ông Mạnh, hết sức “đặc biệt” để…đặc biệt chăm sóc ông. Phần bà Mạnh xưa nay vốn hiền lành thật thà lại có lòng hướng Phật, nên Thầy Từ An an tâm hơn không phải lo lắng nhiều, bà sẽ hòa nhập dễ dàng với không khí nơi đây. Còn những người trong đoàn, dù muốn hay không, đến nước này, mọi người cũng phải răm rắp tuân theo sự sắp đặt của Thầy Từ An.

   Các anh chị em Phật tử trong chùa cùng nhau giúp đỡ mang xách hành lý, hướng dẫn phái đoàn đến văn phòng ghi danh, phát mỗi người hai bộ vạt hò, một áo tràng rồi chia đoàn thành ba nhóm, mỗi nhóm đều có một Phật tử của chùa cặn kẽ lo toan mọi thứ để phái đoàn không bỡ ngỡ xa lạ khi đến đây.

   Ông Mạnh và vài người đàn ông trong đoàn được bác Hải - người Thầy Từ An đề cử - đưa về chung phòng với bác. Căn phòng tươm tất sạch sẽ, đầy đủ tiện nghi với giường tủ, nhà tắm, nhà vệ sinh bên trong, giành cho sáu người.

   Cất để hành lý đâu vào đó, để mọi người nghỉ ngơi sau một chuyến đi dài mệt nhọc, đến giờ trưa bác Hải trở lại đưa mọi người về phòng ăn dùng cơm.

   Bữa cơm chay đầu tiên trong đời với khổ qua nhồi đậu hủ kho mặn, bát canh chua chay và thêm đĩa xào nấm với rau đậu…, không có “đồ nhậu” hay bia rượu, thay vào đó chỉ là ly sữa đậu nành nóng mà sao ông Mạnh thưởng thức ngon đến thế. Buổi chiều chỉ đơn giản mỗi người một tô bún Huế chay, chao ôi, không miếng thịt bò nào mà mùi vị có khác nào… bún bò đâu.

   Nhưng buổi lễ khai mạc khóa tu hôm sau, mới khiến ông Mạnh và phái đoàn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Nhất là ông, đến hôm nay, sau bao ngày xa cách mới nhìn lại “thằng cu con”, con trai của ông ngày nào mũi dãi lòng thòng chỉ biết rong chơi với  bạn bè trong xóm mà nay trưởng thành trang nghiêm trong chiếc áo cà sa vàng tháp tùng cùng các nhà sư khác. Ông chăm bẵm ngắm “thằng con” sao bây giờ lớn tướng oai nghi thanh thoát quá vậy. Sự xuất hiện của quí sư với lộng che, cờ xí, từng bước khoan thai nhẹ nhàng vào chánh điện trong tiếng chuông trống vang rền, đi trước có đoàn Phật tử mở đường, sau cũng có đoàn Phật tử ủng hộ, chưa kể hằng ngàn người khác đang xếp lớp đứng ngay ngắn hai bên chắp tay cung kính chào đón vô cùng trịnh trọng, ông Mạnh chợt nghĩ thầm, giá…thằng cu con nhà ông vẫn ở với ông, chậc,…tương lai không biết ra sao, nhưng chắc chắn sẽ không được vinh dự như hôm nay. Trong ông, bỗng dấy lên một chút ngậm ngùi, bao lâu ông chưa hề có trách nhiệm gì cho thằng cu con, để nó tự mình tìm con đường đi và bây giờ còn cho ông niềm hãnh diện, đã vậy qua nay, bao người ân cần chăm sóc ông và phái đoàn một cách tử tế, há không nhờ từ sự nể trọng của mọi người giành cho con ông đó sao. Một cảm giác khác lạ len lén tâm tư ông, đưa ông lâng lâng bay bổng vào một thế giới xa xăm nào.

    Rồi những ngày sau đó, ngoài ngủ với ăn, cơm chay nhà chùa rau đậu thôi mà sao ngon quá chừng chừng, ông không bị bắt buộc phải làm gì ngoài việc theo các Phật tử tụng kinh, nghe pháp. Con ông đăng đàn giảng pháp, những bài pháp thoại ứng dụng vào đời sống hằng ngày từ giáo lý nhà Phật để đem an lạc hạnh phúc, bao Phật tử ngồi bên dưới chăm chú nghe một cách thích thú, ngưỡng mộ, ông cũng từ từ cảm thấy thấm dần, thấm dần… 

    Những ngày trong chùa, không khí tưng bừng thân thiện, nhìn bao người tất bật với công việc không có thù lao mà ai nấy mặt mày tươi tắn hoan hỉ, ông bị cuốn theo lúc nào không hay, ông cũng xăn tay áo lao vào công việc, chia xẻ với mọi người nào quét dọn, bưng bê… Không ai xấu hổ với công việc người đời cho là thấp hèn, họ luôn nói với ông “Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật!” rồi nở miệng cười toe toét tiếp tục hăng hái làm việc.

     Gần ngày mãn khóa tu, theo thông lệ, chùa luôn tổ chức lễ Qui y Tam Bảo. Ông Hải gặp ông giải thích cặn kẽ, hướng dẫn ông ghi danh. Ông Mạnh hoan hỉ gật đầu.

     Trong năm giới cấm dành cho Phật tử Qui y, giới cấm rượu bia đối với ông Mạnh là…nặng nhất. Nhưng suốt gần 7 ngày trong chùa, ông không uống một ngụm nào, ông thấy tinh thần sảng khoái khỏe ra, do vậy, khi vị Trụ Trì chủ trì buổi lễ cất tiếng hỏi, trước sự chứng kiến của bao người, ông không ngần ngại mạnh dạn tuyên thệ: “Dạ, con giữ được. Con xin cố gắng”. Rồi khi cầm “chứng chỉ” Qui y, chứng nhận từ nay ông là con Phật với Pháp danh “Từ Tâm”, cái tên thật hay đầy ý nghĩa, ông Mạnh lâng lâng vui sướng. Áp chứng chỉ vào lòng, ông đưa mắt ngưỡng trông tôn tượng Đức Phật Thích Ca oai nghi trên bệ cao, ông thấy dường như Đức Phật nhìn ông mỉm cười.

  Ngày chia tay về trụ xứ, mọi người trong đoàn bùi ngùi khi phải rời xa chùa, nơi đầy ắp tình thương yêu  trao cho nhau với bao bạn đạo dễ thương tuy mới gặp và quen chưa bao lâu mà như đã thân thiện từ kiếp trước. Thầy Từ An, con trai ông và Sư Trụ Trì cùng Phật tử trong chùa quyến luyến ra tận xe đưa tiễn. Thầy Từ An tặng mỗi người một xâu chuỗi hạt đeo tay, rồi đặc biệt đến bên cha, xiết tay cha, ân cần nói cho mọi người cùng nghe:

- Chuỗi hạt này, dùng để niệm Phật nhắc nhớ lời Phật dạy, tu thân, sẽ có được cuộc sống an vui hạnh phúc.

   Rồi chiếc xe lăn bánh sau bao lời chúc sức khỏe, thượng lộ bình an, cùng lời hứa hẹn sẽ trở lại ở những khóa tu tới, bỏ lại sau lưng bao người đứng ngóng theo cho đến khi xe khuất hẳn ở một khúc quanh. Không ai để ý nụ cười của Thầy Từ An nở trên môi với lời thì thầm: “Hạt Bồ Đề con gieo vào lòng cha. Con khấn nguyện cầu mong sao, cây Bồ Đề sẽ nở cành xanh ngọn”.

                                        ***

    Thầy Từ An vẫn nhổ cỏ gấu như mọi lần, vẫn thiết tha với hạnh nguyện khẩn cầu Chư Phật, Chư Bồ Tát đoái thương độ cho cha mẹ hạnh phúc, bình an. Thầy tin rằng, tin một cách tuyệt đối, chỉ có Phật pháp và nếp sống đạo, thân cận gần gũi thiện hữu tri thức, sống trong môi trường tốt lành, với thời gian mới có thể tạo nên tập khí từ từ cảm hóa tâm tánh của cha. Khi cha thay đổi, mang sự bình an cho gia đình tức là cùng lúc giải nghiệp luôn cho mẹ.

    Trong cuộc sống, khổ đau, phiền não vốn là bản chất của cuộc đời, vì đời là bể khổ, như cây cỏ gấu tràn lan khó dứt sạch. Tuy nhiên là đệ tử Phật, nếu quyết tâm kiên trì hướng về giải thoát thì vẫn thoát khỏi sinh tử luân hồi để về thế giới chấm dứt khổ đau. Nhưng điều đó còn tùy căn cơ và nỗ lực tu tập của mỗi người. Bảo sở tìm về xa tận kiếp, đâu phải muốn là được nếu không tu. Do vậy, khi nghĩ đến thân sinh, Thầy biết căn cơ cha mẹ còn hạn hẹp nhưng không phải vì vậy mà Thầy nản lòng, Thầy kiên trì như kiên trì nhổ cỏ gấu quyết tạo cơ hội hướng dẫn cha mẹ về con đường đạo, vì đó là con đường duy nhất tuy còn dài xa tít tắp nhưng chắc chắn sẽ là bến đỗ đưa cha mẹ đến Niết Bàn không ở đâu xa mà ngay ở cõi đời này.

 

Trần Thị Nhật Hưng

 



***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/03/2018(Xem: 9802)
Ngày xưa có chú nai hiền Nhởn nhơ vui sống giữa miền hoang sơ Trong khu rừng rậm ven bờ Sông Hằng cuồn cuộn sóng mờ nhân gian. Dáng nai đẹp đẽ dịu dàng Sừng trong nước ngọc, thân vàng ánh châu Nhưng mắt nai lắng u sầu Thương cho trần thế nhuốm mầu bi ai, Nai nghe, nói được tiếng người Nai là Bồ Tát một thời hiện thân. Bên nai muông thú quây quần Coi nai như mẹ muôn phần yêu thương
21/03/2018(Xem: 9780)
Tu Viện Quảng Hương Già Lam, thường được công chúng gọi ngắn gọn là Chùa Già Lam, tọa lạc tại quận Gò Vấp, Thành Phố Hồ Chí Minh. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông, do Hòa thượng Thích Trí Thủ sáng lập vào năm 1960, đây chính là nơi đào tạo tăng tài (cấp đại học) để hoằng dương chánh pháp, phụng sự Phật đạo. Ban đầu, chùa có tên là Giải Hạnh Già Lam, đến năm 1964 được đổi tên là Quảng Hương Già Lam, do lấy tên của một vị học tăng pháp danh Quảng Hương đã vị pháp thiêu thân vào năm 1963 ở Sài Gòn.
16/03/2018(Xem: 15776)
Bí Mật Xứ Tạng (sách pdf) Thích Minh Thế
13/03/2018(Xem: 10337)
Đại hành giả yogi Milarepa sinh trưởng tại tỉnh Gungthang miền Tây Tây Tạng. Ngài là con trai của một chúa đất giàu có tên là Mila Sherab Gyaltsen. Nhưng năm lên bảy tuổi, cha Ngài lâm trọng bệnh và qua đời, trước đó ông đã giao phó toàn bộ gia sản và gửi gắm vợ con mình cho chú thím của Milarepa rồi dặn dò khi nào Milarepa trưởng thành thì chú thím phải trả lại tài sản cho Milarepa và cô em gái. Thế nhưng sau khi cha Ngài mất, người chú và người thím xấu xa tước đoạt toàn bộ gia tài, họ còn bắt ba mẹ con Milarepa phải làm việc như những kẻ nô bộc trên đồng ruộng mà không được trả công. Khi Milarepa lớn lên, chú thím không những không trả lại gia sản mà còn cho rằng đó là phần mà cha Ngài phải trả nợ cho họ. Tức giận và cảm thấy bị sỉ nhục, mẹ của Milarepa gửi Ngài đi học huyền thuật để trừng phạt những kẻ vong ân bội tín. Chẳng bao lâu sau, Milarepa thành thục quyền năng huyền thuật hủy diệt và trong khi trả thù chú thím, Ngài đã sát hại rất nhiều người vô tội. Vô cùng hối hận t
13/03/2018(Xem: 8888)
Tôi rất vui mừng khi được một người bạn mời đóng góp cho trang tôn giáo, tiết mục Phật giáo, trên website của Gia đình Mũ đỏ vùng Thủ đô Hoa Thịnh đốn & Phụ cận, Trước khi bắt đầu cho những bài viết sắp tới, tôi xin được nói về bản thân mình, điều mà rất hiếm khi tôi thường nói đến. Vì tôi nghĩ, nói về Nhảy dù mà bản thân chẳng có một ngày nào sống trong binh chủng này, hay nói về Tae Kwon Do mà không biết tí gì về võ thuật, hay nói về kỹ thuật nhảy toán mà chưa một ngày mang huy hiệu thám sát của Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, thì khi nói đến ai mà tin. Vì vậy tôi phải nói một ít về bản thân, tạo niềm tin cho đọc giả với những bài viết về Phật giáo sau này.
09/03/2018(Xem: 12227)
Tuy là thầy của Nhật Hoàng Thiền sư vẫn thích lang thang du hành Ngài tuy đã rất nổi danh Vẫn làm khất sĩ dạo quanh khắp vùng. Một hôm ngài chợt tạm ngừng Ghé ngôi làng nhỏ trên đường lãng du Trời chiều tăm tối âm u Mưa rơi tầm tã, gió ru lạnh lùng Thân ngài thấm ướt vô cùng Dép rơm tơi tả muốn bung đứt rồi. Tại ngôi nhà nhỏ ven đồi Thấy vài đôi dép bày nơi cửa ngoài Ngài bèn ghé lại tìm người Hỏi mua dép mới thay đôi cũ này, Một bà ở tại trong đây Biếu ngài đôi dép. Lòng đầy xót xa
01/03/2018(Xem: 9427)
Con người còn sống là còn nhiều chuyện để làm, để nói, và suy nghĩ. Ngay cả sau khi chết, sự sống vẫn tiếp tục dưới nhiều hình thức khác. Dù tu chứng đến thành Phật hay Bồ tát thì các ngài vẫn có chuyện để làm, đó là tiếp tục ra vào sinh tử độ sinh, và công việc đó không bao giờ chấm dứt. Mạng sống của con người có ngày chấm dứt nhưng sự sống và dòng đời trôi chảy bất tận.
01/03/2018(Xem: 14684)
Từ lâu Kinh Phật dạy rồi: "Những điều chứa ẩn ở nơi Tâm người Luôn luôn biểu lộ ra ngoài: Tâm như họa sĩ đại tài khéo tay Vẽ muôn hình tượng giống thay, Chúng sanh nên gắng tu ngay Tâm mình!".
04/02/2018(Xem: 5182)
Các trung tâm Bưu điện Úc ( Australia Post – Mail Centre ) có thể nói là nơi dung nạp hay nói đúng hơn là nơi lựa chọn công việc để nương thân của một số những người VN tỵ nạn trong những năm đầu tiên được định cư nơ xứ sở tốt đẹp nầy. Công việc được tuyển dụng vào các trung tâm thư tín nầy là lựa thư ( mails sorting ) và đã được hệ thống Bưu điện Úc gọi cho một cái tên tương đối cũng vui vui là “Mail Officer “ . Việc làm tương đối không có gì cực nhọc, lương bổng cũng tạm hài lòng so với những công việc hiện thời, nhiều over time nên càng có cơ hội để kiếm thêm tiền, công việc vững vàng, ổn định, vì là thuộc diện Job chính phủ, rất hợp cho hoàn cảnh của những người VN tỵ nạn nữa thầy, nữa thợ nơi đây, nói vậy chứ một số lớn người VN làm cho ngành Bưu điện Úc, ngoại trừ một số người có mưu cầu cao hơn, thì cũng ít người bỏ việc nữa chừng, họ đã từ cái job nầy mà được ăn ngon, mặc đẹp, nhà cao, của rộng, xe cộ xênh xang, đời sống khá vững vàng, đủ điều kiện lo cho con cái ăn học nê
20/01/2018(Xem: 4554)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]