Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyện ngắn: Con Nuôi

20/04/202020:35(Xem: 2827)
Truyện ngắn: Con Nuôi

         
co gai que va hoa sen
Truyện ngắn

 CON NUÔI

 

          Thắp xong mấy nén hương trầm, lâm râm khấn vái, dâng lên bàn thờ Phật, rồi bàn thờ gia tiên, dì Thêm thở dài, bước từng bước năng nề xuống bậc cấp cầu thang lát đá nhám màu đen sậm, mắt dõi theo hai bàn chân của mình đổi phiên nhau đặt từng bước xuống lần bên dưới. Cũng là những bước đó trước giờ, nhưng sao tối nay tự dưng dì cảm thấy như mình đang bước dần xuống hố sâu u ám đang chứa đầy nỗi thất vọng, buồn tênh… Hết bậc cấp, dì lê gót đến ngồi phịch xuống ghế sofa êm ái, nhìn bâng quơ qua cửa kính ra ngoài sân, cổng trước… Dì Thêm đang nghĩ về đứa con gái của mình.

        Nó tên Nuôi, vì nó là con nuôi, không phải  là đứa con mà dì phải mang nặng đẻ đau. Trong một chuyến hành hương vào Nam cùng chồng cách đây mười năm, dì đã hữu duyên gặp được nó trong một ngôi chùa sư nữ ở miền Tây sông nước. Chùa nhỏ vùng nông thôn vắng lặng, từ một tịnh thất tu niệm được kiến tạo nhiều đợt để trở thành ngôi thờ phụng Tam Bảo khang trang rộng rãi hơn, mang tên Phước Điền. Chùa chỉ có bốn sư cô tu học, cùng vị trú trì là Ni sư Viên Nguyên, Khi dì Thêm cùng ông Hiên, chồng của dì, theo tiếng đồn mà dò dẫm đến chùa, thì ở đó đã có nuôi dạy bảy đứa trẻ mồ côi, chúng đều là những hài nhi bị cha mẹ bỏ rơi, lén lút đem đặt trước cổng hoặc dưới gốc cây bồ đề trong sân chùa. Từ khi nhận cưu mang đùm bọc đứa trẻ đầu tiên, ni chúng ngoài giờ tu học tụng niệm, còn mang thêm thiên chức giáo dưỡng thay cho những người mẹ, người cha vì hoàn cảnh, vì lý do nào đó đã không thể nuôi dạy đứa con máu mủ của mình. Nhà chùa dẫn dà hóa thành nhà nuôi trẻ, với sự giúp sức hợp lực của chính quyền thôn xã và bà con Phật tử quanh vùng, để từng đứa trẻ lớn lên theo năm tháng trong vòng tay ấm áp tình thương yêu của những người xuất gia bất ly thế gian.

         Dì Thêm nhớ như in, ngày đến chùa lần đầu tiên, cũng là lần đầu tiên gặp gỡ đứa bé gái mồ côi đã tám tuổi, nó cứ lẽo đẽo đi theo dì từ ngoài sân, đến thềm hiên, dọc hành lang, vào phòng khách, rồi cứ đứng giương đôi mắt tròn xoe nhìn dì khi dì đã ngồi hầu chuyện với Ni sư trú trì… Dì cảm nhận được một luồng điện râm ran khó tả chạy khắp người mình, chừng như có một sợi dây vô hình ràng buộc dì với đứa bé, một mối lương duyên kết nối tình cảm thiêng liêng, mà dì chợt hiểu ra đó là “duyên nợ oan gia từ kiếp trước”, khiến cho dì phải thấy nao nao trong lòng, xốn xang trong tim… Vậy nên, dì đã hỏi thăm cặn kẽ về thân nhân đứa bé, được Ni sư cho hay nó đã được nhà chùa nuôi dạy tám năm, từ lúc còn đỏ hỏn nằm gọn trong chiếc khăn lông đặt dưới gốc bồ đề ngoài sân trước. Nó là đứa bé thứ hai bị bỏ rơi được nhà chùa nhận nuôi. Ni sư đã đặt tên cho từng đứa, tục danh thì dùng họ của Ni sư là Lê Thị, tên thì theo thứ tự Diệu Nhất, Nhị, Tam,,, đến đứa cuối cùng là Diệu Thất. Nó là Lê Thị Diệu Nhị, mà Diệu Nhị cũng chính là pháp danh ghi trong phái quy y Tam Bảo. Ngay ngày hôm đó, vợ chồng dì Thêm đã bàn bạc với nhau trên ghế đá ngoài sân cạnh chánh điện, đồng lòng muốn nhận đứa gái tên Diệu Nhị đó về làm con nuôi, thay thế bù lấp vào chỗ bỏ trống của đứa con gái ruột đã qua đời vì bệnh từ mười năm trước, rồi trình thưa ước nguyện với Ni sư trú trì. Thấy hai vợ chồng chân thành tha thiết quá, Ni sư không thể khước từ, nhưng cũng không thể quyết định vội vàng ngay lúc đó, vì còn phải xin ý kiến của nhiều người khác, nên Ni sư đã hẹn một tháng sau sẽ báo tin. Rồi đúng một tháng sau, Ni sư báo tin đã chấp thuận để Diệu Nhị rời khỏi chùa, để về làm con trong một gia đình khá giả ngoài miền Trung xa xôi… Hai vợ chồng dì Thêm đã tức tốc vào lại miền Tây, để rồi khi trở về họ có thêm một đứa con nuôi dễ thương và lễ phép. Ông Hiên đã lo hết thủ tục hộ tịch, làm lại khai sanh mới, đặt tên mới cho đứa bé theo họ của ông là Trần Thị Nuôi, pháp danh vẫn là Diệu Nhị.

         Mười năm, gia đình có thêm thành viên nên đỡ trống vắng, nhưng ông Hiên đã từ trần sau cơn đột quỵ ba năm trước, Nuôi được sống trong vòng tay thương yêu bảo bọc của người cha chỉ bảy năm.  Mười năm trôi qua, Nuôi đã được cho ăn học đầy đủ đến cuối cấp trung học, đã là một thiếu nữ tuổi mười tám tươi xanh, nhưng nó đã xin thôi học, để ở nhà đỡ đần và phụng dưỡng mẹ trong những tháng năm trong nhà đã vắng bóng người đàn ông trụ cột, cũng như phụ giúp mẹ trông coi quán tạp hóa. Nhà của dì Thêm là ngôi nhà đúc rộng rãi, trên diện tích hơn trăm mét vuông, có gian lửng làm phòng thờ riêng biệt, nằm ở khu vực ven thành yên tĩnh. Nói là nhà phố cũng không đúng, mà nhà quê cũng không đúng, lưng chừng phố quê, nên quán tạp hóa mở phía trước sân nhà và một phần diện tích của phòng khách đã trở thành địa điểm quen thuộc của cư dân các xóm cận kề từ năm năm về trước, là nguồn thu nhập đáng kể của dì Thêm để có đồng ra đồng vào nuôi đứa con gái ăn học, và giết bớt thời gian nhàn rỗi dễ sinh chán chường khi tuổi tác của cả hai vợ chồng ngày càng cao. Đến khi Nuôi lấy được bằng tốt nghiệp rồi nghỉ học, dì Thêm đã giao phó hết công việc nhà, cũng như trông coi mua bán của quán tạp hóa cho đứa con gái, mà không một mảy may nghi ngại. Dì Thêm vui lắm, rất an tâm tin tưởng khi thấy Nuôi đảm nhận rồi quán xuyến mọi việc rất chu toàn và thuần thục…

          Nhưng, sau cái Têt Canh Tý vừa rồi, khi đại dịch viêm phổi do virus Corona xuất hiện gây điên đảo tang thương khắp đó đây, tiếp đến là chỉ thị của chính phủ về cách ly xã hội để phòng chống lây nhiễm virus, cuộc sống đã bị xáo trộn, ngưng trệ, đầy thấp thỏm lo âu, cũng là lúc đứa con gái nuôi của dì Thêm lộ mặt thật gian manh dối trá.

       Thất vọng. Hụt hẫng. Cả một tòa lâu đài niềm tin sụp đổ. Đợt cách ly xã hội đầu tiên với mười lăm ngày, thì mới chỉ một tuần là dì Thêm đã phát hiện, nhận biết sự gian dối làm dì lòng đau như cắt, đau đến nỗi dì đã không dám gọi con gái đến để hạch hỏi, truy vấn những biểu hiện mà dì đã thấy được, đếm được… Dì nuốt nghẹn, im lặng, làm bộ ngu ngơ như chưa hề biêt gì để âm thầm theo dõi tiếp thêm năm ngày nữa, như muốn tìm thấy thêm chứng cứ cho chắc chắn để kẻ phạm tội không còn lý lẽ chối cãi…

       Đến chạng vạng hôm nay thì dì Thêm đã không còn nhẫn nhịn được rồi, dì thắp hương lạy Phật, vái hương linh chồng, rồi ngồi chờ con Nuôi về, nhất định tối nay sẽ làm cho ra lẽ, không dung thứ nữa. Và rồi, nó đã về. Nó bước qua cổng qua sân vào nhà bằng những bước nhí nhảnh, và vẻ mặt rạng rỡ… Dì Thêm ngồi nơi ghế sofa với mặt lạnh như băng giá, mắt long lên sòng sọc nhìn con gái, khiến nó khựng người lại, mặt mày tối sầm rồi chuyển sang xanh tái thật thảm hại. Dì nghiêm nghị chỉ ghế đối diện, hằn học lệnh cho nó ngồi xuống, rồi dì nói luôn không chần chừ:

        “Ngồi đó dỏng tai lên mà nghe hỏi thôi, khi nào tao biểu trả lời mới được mở miệng. Câu hỏi thứ nhất: tiền lãi từ 100 triệu giao cho mày, năm phần trăm hằng tháng, vị chi là năm triệu đồng, cho nhóm thợ xây dựng của thằng Kiệt vay với tinh thần hỗ trợ gần hai năm qua, trước giờ mày đều mang về đầy đủ đúng hẹn giao cho tao, rồi tao cũng cho mày đó thôi chứ đâu giữ đồng xu nào, sao hai tháng rồi không thấy?”

      “Dạ… thưa mẹ… mẹ bớt giận… mẹ đừng xưng mày tao… con nghe đau xót quá!”

       Nuôi nghẹn ngào, mới ấp úng nhiêu đó thì dì Thêm đã đập bàn, quát nạt:

      “Im. Tao đã biểu là không mở miệng mà. Chờ tao hỏi xong  đã. Câu hỏi thứ hai: Hàng hóa trong quán trước ngày cách ly xã hội, đang đầy chồng chồng đống đống, tự dưng hai ngày rồi bay hơi, biến mất tăm, để lại nhiều khoảng trống trên kệ, trên tủ… Tao kiểm tra sơ qua mà đã thấy mất đi rất nhiều mắm muối,  xì dầu, bột ngọt, đường, sữa, dầu ăn, và cả chục thùng mì gói nữa. Số hàng đó mày mang đi bán ở đâu rồi? Nếu đã bán được thì phải báo cáo thu chi cho tao như bao năm qua chứ, sao hai ngày rồi mày vẫn im thin thít, tự ý tự quyền làm như tao đã chết mất rồi vậy?!”

       “Mẹ…”

        “Im! Chưa được phép trả lời. Còn câu cuối nữa: ngoài kia dịch bệnh hoành hành, lệnh cách ly đưa ra thì phải ở nhà, ai ở yên đó, chỉ ra ngoài khi thật sự cần thiết, vậy mà mày vẫn cứ lén lút đi đâu đó khi tao đang ngủ nghỉ. Rồi tao mà hỏi mày đi đâu, mày cứ nói là qua chùa, chùa cũng đóng cửa cổng thời gian này chứ đâu mở toang như trước mà mày qua với đến? Mày đi đâu, làm gì, giao tiếp với ai?”

         Dì Thêm nghiêm sắc mặt, hơi thở rất nặng nề và dồn dập, nhìn con gái bằng đôi mắt đỏ ngầu đầy giận dữ. Nuôi  ngồi bất động, mím môi, chờ đợi. Dì Thêm buông mấy tiếng  cộc cằn:

        “Trả lời đi, Tuần tự, rõ ràng và đúng sự thật đi. Tao nghe đây!”

        Bấy giờ, Nuôi mới dám đứng dậy, chồm đến bộ bình ly nơi đầu bàn, rót nước đầy ly, hai tay bưng mời mẹ, giọng nhẹ nhàng:

        “Mẹ uống miếng nước cho hạ cơn giận cái đã, rồi con xin thưa chuyện ạ!”

       Chỉ một cử chỉ đó của con gái thôi, chưa uống hớp nước nào mà dì Thêm đã bỗng thấy gió mát lùa vào nhà, những cộc cằn hung hăng mới rồi trong thoáng chốc bỗng tan biến đâu mất. Nó, con Nuôi, xưa nay vốn là vậy rồi. Lễ phép, hiếu thảo như cô tiên nữ trong nhà đã từng làm cho người mẹ xua tan đi được phiền não, mệt nhọc, và nguôi ngay những lo lắng, dỗi hờn… Dì Thêm nhận ly nước, nhìn thấy đôi mắt con gái đang rưng rưng, liền hớp liền một hơi hết ly nước khoáng tinh khiết. Chờ mẹ đặt ly xuống bàn, Nuôi mới thưa với giọng nghèn nghẹn:

       “Thưa mẹ, trước tiên con xin cúi đầu nhận lỗi với mẹ, con xin mẹ bao dung tha thứ, lỗi của con là trễ nãi chậm chạp, không báo trình sớm rõ ràng sự việc, để mẹ phải lo lắng buồn bực. Con vì muốn dành bất ngờ đến phút cuối, và nhất là con cứ chủ quan, nghĩ rằng mẹ luôn hiểu con, tin tưởng con, biết hết lòng dạ của con gái mẹ sẽ không bao giờ thay đổi, nên con mới chểnh mảng…”

       Nuôi nhìn mẹ đăm đăm với đôi mắt tròn xoe, thấy được sắc diện của mẹ đã không còn nét giận dữ. Dì Thêm ngồi như bất động, lòng lắng dịu, lắng nghe.

      “Thưa mẹ, về khoản tiền lãi hằng tháng nhận về từ nhóm của anh Kiệt, đúng là năm triệu mỗi tháng, hai tháng là mười triệu, đó là khoản tiền mẹ đã cho vay hỗ trợ giúp đỡ những người lao động nghèo, họ đã đến kể lễ than van về nạn cho vay nóng với lãi suất cao của giới xã hội đen, họ năn nỉ van xin nhiều lần nên mẹ mới giao việc đó cho con đảm trách… Từ sau Tết, nhóm thợ xây dựng này gồm thợ hồ, thợ sơn, thợ sắt, thợ điện nước đều thất nghiệp, lại dính thêm cây dịch viêm phổi, mọi người phải cách ly, lâm cảnh nghèo ngặt khốn khó. Ờ khắp nơi, nhiều chủ nhà trọ đã không nhận tiền trọ, miễn phí cho người lao động nghèo đến hai, ba tháng, hoặc giảm bớt tiền thuê mấy mươi phần trăm rồi tặng thêm gạo mì mắm muối… Con vì hiểu lòng mẹ xưa nay vốn nhân từ, rộng lượng, nên đã thay mặt mẹ mà miễn nhận tiền lãi cho nhóm thợ xây dựng tạm thời trong hai tháng, chờ tình hình đại dịch diễn biến ra sao rồi tính tiếp!”

        “Ồ… con đã làm được việc đó sao?” Dì Thêm sáng rỡ mặt mày hỏi.

        “Dạ, con đã thay mặt mẹ mà chia sẻ để vơi bớt gánh nặng cho họ rồi. Lỗi của con là làm trước báo sau, đúng phép thì phải hỏi ý mẹ trước rồi mới được làm. Mẹ có đồng ý không?”

        Dì Thêm vui ra mặt, vỗ nhẹ đùi một cái, cao giọng:

        “Dĩ nhiên là đồng ý cả hai tay rồi. Con hiểu lòng mẹ, vậy là tốt rồi. Mẹ cũng muốn làm những việc từ thiện nho nhỏ như vậy, định hỏi ý con, mà cứ chần chừ… Thôi ổn rồi, chuyện đó cho qua. Còn chuyện hàng hóa trong quán vơi mất thì sao?”

       Thấy mẹ đang vui, thái độ khác hẳn, Nuôi liền rời chỗ ngồi, sà qua ngồi bên dì Thêm, giọng nủng nịu:

        “Con mang đi một số nhu yếu phẩm qua nộp bên chùa rồi ạ. Chùa có vận động quyên góp của Phật tử, lá lành đùm lá rách, để phát chẩn hỗ trợ cho người già yếu, tàn tật, và người nghèo khó trong thời gian cách ly xã hội không kiếm ra tiền. Quán nhà mình không có gạo, nên sẵn có món gì thì con gom để đóng góp… Mới chiều nay con vừa chuyển qua chùa thêm một đợt, hồi nãy định về đến nhà là báo cho mẹ hay…”

       “Ui trời… cái con bé này…” Dì Thêm nhướng mắt lên, xoa đầu con gái “Con thiệt bậy, bậy là làm mà không hỏi, không bàn trước cho mẹ biết…”

       Nuôi định mở lời thì ngay lúc đó có người đứng ngoài cổng gọi vọng vào:

        “Chị Diệu Nhị ơi… chị Diệu Nhị…”

       Cả hai mẹ con đều giật mình, cùng chồm người hướng nhìn ra phía cổng ngoài sân, nhìn thấy đó là một chú sa di bên chùa Thiền Quang. Dì Thêm liền đẩy thúc con gái chạy ra cổng, rồi ngồi đó dõi mắt nhìn với tâm trạng khác lạ. Một hồi, chú sa di đã rời khỏi nơi cổng ngõ, Nuôi quay vào nhà với nét mặt tươi tắn, tay cầm một mảnh giấy màu vàng, trình cho mẹ. Dì Thêm nhận mảnh giấy, trố mắt lên đọc từng chữ từng hàng. Đó chỉ là một tờ biên nhận “tán dương công đức” của nhà chùa, trên đó ghi rõ “Đã nhận của bà Nguyễn Thị Thêm một số nhu yếu phẩm với tổng trị giá năm triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng, đóng góp phát quà từ thiện cho người nghèo trong thời điểm cách ly xã hội phóng chống đại dịch COVID-19”. Mắt dì Thêm nhòa đi, dì đang xúc động như đang mới đọc xong kết quả trúng thưởng giải đặc biệt của xổ số kiến thiết. Nuôi ngồi một bên, tay xoa lưng mẹ:

       “Nãy con vội vàng chạy về, chưa kịp lấy giấy biên nhận, nên Thầy mới sai chú Quảng Long qua đưa, và nhắn là nhà chùa đang thiếu nhân sự phân chia, gói từng gói quà để kịp sáng mai phát kèm với gạo cho người nghèo. Thầy nói nếu con rãnh được thì chạy qua, còn không thì thôi, mẹ ạ!”

         “Vậy sao?”  Dì Thêm ngồi thẳng lưng lên, đẩy con gái “Con mau qua chùa phụ giúp Thầy đi. Mỗi người một tay mới xong việc, chứ phân chia gói ghém lâu lắm đó! Đi liền đi con!”

        Nuôi  hí hửng đứng dậy, chạy vào trong để rửa ráy thay đồ. Dì Thêm ngồi nơi ghế sofa bần thần, nhìn lên phòng thờ trên gian lửng, nước mắt chưa được phép của dì mà đã chảy ròng ròng hai hàng không kềm nén lại được… Một chặp, dì đứng dậy, bước từng bước khoan  thai nhẹ nhàng lên từng bậc cấp cầu thang. Khi dì mới lên được lưng chừng cầu thang, thì Nuôi từ nhà trong đi ra. Dì dừng chân. Nuôi đứng lại. Hai mẹ con nhìn nhau, Nuôi lên tiếng:

      “Thưa mẹ, con qua chùa đây ạ!”

       “Ừm, con đi đi. Đóng bớt cửa sắt, cổng ngoài cho cẩn thận nghen con.”

        Nuôi mới bước được mấy bước ra đến thềm cửa, chợt nghe tiếng mẹ gọi giật ngược:

        “À nè, con gái…”

        “Dạ, mẹ dạy gì ạ?”

         “Không, không dạy gì dặn gì nữa đâu. Mẹ chỉ muốn nói lời…”

        “Sao ạ?”

        “Mẹ xin lỗi. Và, cảm ơn con. Cảm ơn con!”

 

                                                              Tâm Không – Vĩnh Hữu 

  

Ý kiến bạn đọc
22/04/202012:35
Khách
Truyện hay quá.Đây là một trong những truyện hay của nhà văn Vĩnh Hữu. Chỉ có duyên lành bắt nguồn từ cửa chùa mới có kết quả ấm áp như vậy. Vinh danh lòng từ bi của nhà Phật.
Cám ơn nhà văn Vĩnh Hữu đã viết ra một cốt truyện thâm thuý như thế.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/01/2015(Xem: 6799)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4980)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10247)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3739)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4950)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5144)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 8118)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4345)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13702)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
06/12/2014(Xem: 3761)
T huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]