Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhân Duyên, Nhân Quả

25/02/201913:53(Xem: 3795)
Nhân Duyên, Nhân Quả
phatvahoasen
Nhân Duyên, Nhân Quả
Trần Thị Nhật Hưng

   Sau thời gian dài hơn nửa đời người mon men đến chùa thân cận với thiện hữu tri thức và nghe Pháp, tôi quen thuộc đến hai chữ “Nhân Duyên, Nhân Quả“ rồi nhìn lại cuộc sống, chiêm nghiệm, mới nhận rõ rằng hai điều đó luôn hiện hữu trong đời sống chúng ta.

  Gặp nhau là do nhân duyên. Đến hay đi, còn hay mất, biệt ly hay sum họp, tốt hay xấu, thành hay bại cũng đều do nhân duyên và nhân quả. Tôi xin trình bày điều đó từ chính cuộc đời văn chương của tôi.

   Ngày tôi đặt chân đến Thụy Sĩ năm 1982, sau khi ổn định cuộc sống, trong nỗi buồn vừa cô đơn lẫn cô độc, vì đấng lang quân còn đang miệt mài theo đuổi “Đại Học Máu“ (Từ của nhà văn Hà Thúc Sinh ví các trại lao tù cộng sản Việt Nam thời đó) tôi tìm vui trong sách báo.

   Một ngày, tình cờ thấy tờ báo Phụ Nữ Diễn Đàn khi đến chơi nhà một người bạn, tôi âm thầm lấy giấy bút ghi địa chỉ tòa soạn tận mãi bên Mỹ rồi về nhà gởi tập trung thiên tiểu thuyết „Tuổi Hồng Con Gái“ tôi viết thời còn ở Việt Nam rồi vượt biên mang theo (sau này chỉnh sửa lại thành truyện dài đã phát hành năm 2012). Gởi đi xong, tôi nhận thư tòa soạn trả lời, báo hải ngoại một tháng phát hành một lần, cần truyện ngắn hơn truyện dài.

   Truyện ngắn ư, hơi lạ lẫm với tôi, mới cầm bút mà, tôi không rõ viết thế nào, sắp xếp cốt truyện ra sao cho đủ ngắn theo đúng yêu cầu, thế là tôi mon men nghiên cứu các truyện ngắn đã đăng trong sách, báo.

   Giai đoạn từ năm 1983 trở đi, sau khi ổn định đời sống, sinh hoạt báo chí hải ngoại bắt đầu rộn ràng, nhiều cây bút mới nam cũng như nữ, tuy mới xuất hiện đã gây tiếng vang xôn xao khắp nơi. Tôi đặt mua hết các sách họ phát hành để học cái hay, cái mới từ họ.

   Tục ngữ Việt có câu “Có công mài sắt, có ngày nên kim„ hoặc “Có chí thì nên“, sau một thời gian dài chịu thương chịu khó tìm tòi học hỏi, tôi viết được vài bài thử gởi đi. Cốt truyện thì, sau sáu năm dưới chế độ cộng sản, vừa là nhân chứng vừa là nạn nhân, rồi thêm một thân một mình bôn ba lưu lạc xứ người, đương đầu với mọi khó khăn, gian khổ cùng cực trong cuộc sống, thiếu gì điều để viết, đời tôi biến thành những trang tiểu thuyết đẫm lệ, tôi tha hồ trải lòng mình như một cách giải tỏa nỗi niềm để quên đi những tháng ngày cô đơn buồn tẻ nơi xứ lạ.

   Lần đầu tiên, bài gởi đi được đăng là mừng lắm, lắm rồi, còn có thêm nhuận bút, điều không mơ, không đòi mà được, cứ một trang A4 là 20 US đô la. Một truyện ngắn thường 3 hay 4 đôi khi 5 trang. Thừa thắng xông lên, tôi miệt mài và thích thú chuyện cầm bút. Ngoài thời gian cho hãng xưỡng, lo cơm nước bản thân, thời gian còn lại, tôi dành cho đọc và viết lách. Không phải vì nhuận bút tôi mới viết, tôi gởi bài đến cả những báo không trả nhuận bút do các bạn văn giới thiệu như Lửa Việt tại Canada, Việt Nam Tự Do và Đẹp tại Hoa Kỳ . Thời gian sau đó, một vài truyện ngắn của tôi được đài phát thanh Hoa kỳ lẫn cả nước Úc xa xôi, nơi mà tôi không liên hệ gì về báo chí chọn đọc cho mọi người nghe, còn niềm vui và an ủi nào hơn thế nữa cho tôi?!

   Cuộc sống cứ thế tiếp diễn, cho đến một ngày khoảng năm 1990, nhân duyên mới đến với tôi, cũng tình cờ đọc được tờ báo Viên Giác tại nhà một người bạn. Đó là tờ báo đạo xuất bản tại Đức do Thầy Thích Như Điển thành lập và làm chủ nhiệm. Đọc qua, tôi thấy nội dung dễ thương, và là tại Âu Châu nơi mình định cư, tôi mon men làm quen với...Hòa Thượng Thích Như Điển lúc đó mới đang là Đại Đức trong dịp lễ kỷ niệm 10 năm tị nạn do chính phủ Thụy Sĩ tổ chức. Tôi đến chào Thầy với một chút tịnh tài cúng dường Tam Bảo đặt trong bao thư ghi rõ địa chỉ của tôi, thế là từ đó tôi nhận được báo Viên Giác. Đọc không chưa đủ, tôi gởi bài và được đăng.

   Cái duyên Viên Giác bắt đầu từ đó và càng gắn bó hơn cho đến ngày tôi được trúng giải nhất và hai giải khuyến khích “Viết Về Âu Châu“ do chính Hòa Thượng và chùa Viên Giác tổ chức.

   Hôm lãnh giải xong, Thầy Thích Tịnh Phước tại Thụy Điển đến nói với nhà tôi (đấng lang quân của tôi thời gian này đã sum họp cùng tôi sau hơn 13 năm xa cách): “Chị nhà là Phật tử, lại có khiếu viết văn, anh về nói chị nghiên cứu kinh điển và giáo lý Phật Đà để chuyển tải giáo lý nhà Phật. Phật tử mà viết theo cái hiểu của Phật tử thì dễ đi vào lòng người hơn“. Nghe nhắn lại, tôi nghe để mà nghe chứ giáo lý của Phật tôi vẫn biết mênh mông, cao siêu, đọc và học đến bao nhiêu kiếp mới hết, với lại hồi đó đời sống và tâm hồn tôi còn đầy trần tục, mang tiếng là con nhà Phật vì cha mẹ theo đạo Phật nhưng trong tôi, ngoài câu niệm Phật thông thường « Nam Mô A Di Đà Phật », tôi hoàn toàn không biết gì thêm, làm sao tôi dám hứa hẹn hay nhận lời. Tùy duyên thôi. Nhưng lời nhắn nhủ ấy, tôi vẫn ghi sâu trong lòng và xem đó như sự gởi gắm của Thầy Tịnh Phước đến tôi. Rồi cũng nhờ thông tin từ báo Viên Giác, một nhân duyên hy hữu, tôi ghi tên tham dự các khóa giáo lý Âu Châu do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức. Biết tôi cầm bút viết được văn, lần nào Hòa Thượng Thích Như Điển gặp tôi cũng nói: « Chị về viết cho bài tường thuật khóa tu nhé ». Tôi « dạ » nho nhỏ, nhưng không dám hứa gì. Rồi thì khi về đến nhà, phần quí kính Hòa Thượng, phần nghĩ Hòa Thượng tin tưởng gởi gắm mình mà nói như thế, nên tôi cố gắng ngồi viết.

    Khóa Tu Học Âu Châu, viết riết, quanh đi quẩn lại cũng chỉ bấy nhiêu. Ngày ba thời: Ba thời học, ba thời ăn, ba thời tụng kinh, liệt kê số lượng tham dự, nơi tổ chức,…còn gì để viết nữa đâu, bấy giờ tôi mới sực nhớ đến lời nhắn nhủ của Thầy Thích Tịnh Phước, rồi chợt nghĩ, sao không kể lại, viết ra những giáo lý theo cái hiểu của mình do quí Thầy giảng. Mà muốn viết thì phải lắng nghe, lắng nghe một cách  chăm chú, và ghi chép nữa. Sau này tôi mua được máy thâu, thâu xong về nhà nghe lại lần hai…lượm lặt ghi chép những ý chính rồi viết thành bài. Cứ như thế với thời gian, giáo lý nhà Phật thâm nhập vào tôi lúc nào không hay, để tôi nhận ra, giáo lý của Ngài quá hay, quá thực tế từng giúp tôi giải tỏa những nỗi khổ niềm đau, không nuối tiếc những mất mác, giải quyết nhiều vấn đề khó khăn nan giải để lòng được thanh thản, từ đó tín tâm tăng trưởng cho tôi niềm tin tuyệt đối về giáo lý nhà Phật, rồi tôi tiếc cho nhiều Phật tử mang danh là Phật tử như tôi trước đây, đến chùa mà chưa có nhân duyên để quan tâm về giáo lý nhà Phật.

  Tìm ra và vạch cho mình một hướng đi, tôi xem đó là lý tưởng sống cho quãng đời còn lại của tôi, và tôi thích thú khi nghe giáo lý quí Thầy giảng để rồi viết lại theo cái hiểu của mình chuyển tải đến người khác như lời Thầy Tịnh Phước gởi gắm ngày nào, được chút nào hay chút nấy.

   Trở lại việc báo chí. Những tờ báo đời (nghe hai chữ « báo đời » đã thấy đi liền với…báo hại rồi). Chơi chữ cho vui vậy thôi, báo nào cũng là báo, là nghệ thuật văn chương giúp cho đời thêm vui, nhất là về đời sống tinh thần.

   Lúc đó, song song cộng tác với báo đời, tôi vẫn viết cho báo đạo Viên Giác vì đó là niềm đam mê văn chương.

   Như trên tôi đã nói, mọi sự trên đời đều do Nhân Duyên, tồn tại lâu hay mau, mất hay còn cũng do nhân duyên rồi ra Nhân Quả. Có cái này sẽ sinh cái kia. Những tờ báo đời hồi đó hầu hết đều bán hoặc sống nhờ quảng cáo. Một vài tờ chỉ tồn tại thời gian ngắn vì nội dung tờ báo hay đem những tranh chấp, cãi nhau, thậm chí đem chuyện riêng tư gia đình tam đời tứ đại của đối phương ra mà chửi. Không ai muốn đọc những bài như thế nên tờ báo tự diệt thôi. Rồi hằng loạt các báo đời đóng cửa khi công nghệ thông tin Internet ra đời. Nền văn minh công nghệ hiện đại, tạo ra một mạng lưới quá thuận lợi để độc giả tha hồ đọc báo trên mạng khỏi mất tiền mua và khỏi cất giữ sách báo cho chật nhà đã khiến hàng loạt các nhà xuất bản rụng như sung rụng. Thế nhưng, cho đến bây giờ đã 40 năm, tờ Viên Giác vẫn tồn tại lâu dài nhất thế giới, vững mạnh cho đến  ngày kỷ niệm hôm nay. Tại sao?

   Câu hỏi tại sao, và câu trả lời, đương nhiên tùy theo cái nhìn và suy nghĩ của mỗi người, riêng tôi, tôi cũng nghĩ theo cách riêng của tôi.

Là Phật tử, tôi tin nhân duyên và nhân quả. Vậy trong trường hợp này nhân duyên và nhân quả ở đâu. Thay cho câu trả lời, tôi chỉ đặt lại câu hỏi, nếu Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác không là bậc chân tu, không yêu văn chương, không miệt mài dịch kinh in sách, và anh chủ bút Phù Vân cùng ban biên tập, ban kỹ thuật báo Viên Giác không sốt sắng chăm lo tờ báo đóng góp thời gian và công sức trong tinh thần vô vụ lợi, đặc biệt nhất là sự ủng hộ hết mình của độc giả khắp nơi về mọi phương diện tinh thần lẫn vật chất thì tờ báo sau 40 năm có vượt qua nổi mọi giai đoạn khó khăn thử thách để tồn tại đến bây giờ không ?!

  Mọi sự đều kết tập từ nhiều nhân duyên giữa người này với người kia, việc này với việc khác, cộng thêm tinh thần đoàn kết bằng tấm lòng chân thành của mọi người giành cho văn học Việt Nam, cho Phật Giáo, cho chùa Viên Giác, cho Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển và cho cả niềm vui của chính mình mới có thành quả, nhân quả như hôm nay.

   Mong sao tờ báo Viên Giác sống mãi qua các Nhân DuyênNhân Quả như vừa trình bày trên.

 Trần Thị Nhật Hưng

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 13658)
Hằng năm cứ mỗi độ cuối đông, toàn thể Phật giáo đồ trên khắp năm châu bốn bể, đều long trọng tổ chức lễ kỷ niệm ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo (vào ngày mùng tám tháng mười hai âm lịch).
08/04/2013(Xem: 14039)
Cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ, vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch, tại miền trung nước Ấn Độ, Bồ tát Hộ Minh đã giáng trần, qua hiện thân thái tử Sĩ - Đạt – Ta, con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya. Ngài đã vì lòng từ bi, . . .
08/04/2013(Xem: 10546)
Nhân sinh nhật lần thứ 57 (kể theo tuổi ta) của tôi năm nay (28.6.2005) có một Phật Tử Việt Nam tại New York, Mỹ Quốc, gởi tặng cho tôi một bộ kinh Kim Cang rất quý, có xuất xứ từ đời nhà Thanh (Trung Hoa) và chính do vua Khang Hi (1666-1722) viết, được phục chế lại. Quả là một món quà vô giá.
08/04/2013(Xem: 11448)
Hương bối ngàn xưa gió thoảng về mái chèo Thập Ðộ vượt sông mê Gương soi vằng vặc, Tâm Bồ tát Thánh Hạnh, trăng sao rạng bốn bề!
08/04/2013(Xem: 16538)
Thuở xa xưa có một chàng trai con của một vị Bà la môn (giai cấp "tu sĩ" cao nhất ở Ấn Độ) sống dưới triều đại vua Pasenadi (Ba Tư Nặc), kinh thành Xá Vệ, thuộc vương quốc Kosala (Kiều Tát La). Tên của chàng là Ahimsaka (người thất bại). Chàng được gởi đến thành phố Taxila để học hành.
08/04/2013(Xem: 14105)
Trong cuốn Xứ Trầm Hương, nhà thơ Quách Tấn khi viết về chùa chiền ở Khánh Hòa đã có những nhận xét là Khánh Hòa có lẽ là tỉnh nhiều chùa hơn tất cả các tỉnh Miền Nam Trung Việt và chùa có mặt hầu hết trên khắp xã phường trong tỉnh. Các tổ khai sơn đều là người Việt, phần nhiều có sự nghiệp để lại cho đời.
08/04/2013(Xem: 15584)
Toàn thể câu chuyện, cũng như mỗi tình tiết nhỏ nêu ra đều được nung nấu trong mối tư lường của một thánh tính đạt tới cõi lô hỏa thuần thanh, siêu thần nhập hóa. Không thể nào nói đó là bút pháp tài tình, kỹ thuật điêu luyện,chỉ có thể nói rằng đó là một cuộc kết tinh huyền nhiệm của lịch sử Đông phương giữa một triều sóng rộng dâng lên cùng với bao nhiêu ngọn gió ở bốn chân trời lổ đổ thổi lạ
08/04/2013(Xem: 14006)
Nếu có chánh niệm, đem những khổ đau, luân lạc và gian truân của mình ra đọc truyện Kiều chúng ta có cơ hội thấy được bản thân. Và như vậy đọc truyện Kiều cũng là tu. Tu tức là nhìn tất cả những gì đã và đang xảy ra trong đời mình bằng con mắt quán chiếu.
08/04/2013(Xem: 13422)
Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn....
05/04/2013(Xem: 3175)
Một ngày nọ có chàng trẻ tuổi vừa buồn vừa khóc, tìm đến Đức Phật. Đức Phật hỏi: "Cái gì sai trái đã làm nhà ngươi khóc?" "Thưa ngài, cha con chết ngày hôm qua." ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]