Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thầy của Gia Sư

22/10/201820:03(Xem: 2769)
Thầy của Gia Sư

thaygiao_painting2
TRUYỆN NGẮN

 

THẦY CỦA GIA SƯ

   

           Một cú điện thoại gọi đến vào giấc trưa im ắng đã làm cả nhóm sinh viên chúng tôi giật bắn cả người. Thằng Tiên, trưởng nhóm gia sư, vồ lấy điện thoại với vẻ mặt háo hức. Tiếng đầu dây bên kia:

         “A lô, xin lỗi … có phải nhóm gia sư trường Đại học Nha Trang không ạ?”

         “Dạ phải! Dạ phải!”, thằng Tiên vừa đáp vừa nheo mắt nhìn chúng tôi.

          “À, tôi cần một gia sư thật gấp!”

          “Kèm lớp mấy ạ? Môn gì ạ?”

          “Lớp 5, môn Toán. Con tôi nó thích học cô giáo, có cô không?”

          “Dạ … có ạ. Nhưng hai bạn nữ trong nhóm chúng em đã kẹt dạy những nơi khác rồi ạ. Vả lại, về môn Toán thì bên nam chúng em xuất sắc hơn, vượt trội hơn nhiều!”

           “À ừm… thôi được rồi, nam cũng được!”

            “Xin anh cho biết địa chỉ, chúng em sẽ đến để trao đổi bàn bạc cụ thể, rõ ràng hơn ạ!”

           Thằng Tiên hí hửng viết vào sổ tay. Tôi, Tiến, Long và Đạo bu lại quanh trưởng nhóm. Đã có việc làm rồi, nhưng chưa biết sẽ được giao cho ai, hồi hộp quá. Thằng Tiên vâng dạ rối rít, cảm ơn thật rõ to, rồi đặt máy xuống. Đưa mắt nhìn chúng tôi, Tiên tủm tỉm cười, hỏi:

           “Nghe rõ cả rồi chứ gì? Bây giờ bốc thăm. Ba đứa thôi. Tao và Tiến đã có chỗ để kèm với kẹp rồi. Lấy ba mẫu giấy, viết ba tên Hồng, Long, Đạo ra rồi bốc thăm lẹ đi!”

          Tôi được may mắn chọn “cái sô” hấp dẫn này. Đúng 7 giờ tối, Tiên chở tôi đi tìm nhà thân chủ. Đi loanh quanh, hỏi han, lần mò hết nửa giờ, hai đứa tôi mới bước được vào nơi cần đến. Hai vợ chồng anh Nhân gia chủ đón tiếp hai đứa tôi thật nồng hậu, niềm nở hỏi han chuyện trò. Trong khi Tiên trao đổi với anh Nhân về thời khóa biểu, giá cả thù lao cho thuận lợi cả đôi bên, tôi im lặng đảo mắt xem xét quanh nhà. Nhà không phải giàu có lắm, chỉ cỡ khá giả, có của để của dư. Nhìn đồ đạc bày biện thì biết. Máy móc tiện nghi có đủ, nhưng chỉ thuộc loại thường thường bậc trung. Ấn tượng nhất là những bức tranh treo trên các vách tường gian phòng khách. Những bức sơn đầu đều có dòng đề tặng của tác giả. Tôi đoán ngay gia chủ là một văn nghệ sĩ. Mà thật vậy, khi Tiên hỏi dò, anh Nhân cho hay anh sống bằng nghề viết văn- viết báo, một cây bút tự do, một nhà báo không thẻ, còn vợ anh làm thợ may hàng gia công ngoài chợ. Vì bận bịu công việc, anh chị không thể theo dõi thường xuyên việc học của đứa con gái út, nên trong một lần đột xuất kiểm tra về môn Toán, mới hoảng hồn khi thấy con gái học trước quên sau những bài toán không có gì là khó. Tôi nhận nhiệm vụ dạy kèm cho bé Thúy, con gái của gia chủ, mỗi tuần ba buổi vào các tối thứ ba, sáu và chủ nhật.

Ngày dạy kèm đầu tiên, tôi được anh Nhân hướng dẫn lên trên căn gác đúc. Tôi choáng ngợp trước những kệ sách báo ngăn nắp quanh căn phòng làm việc của chủ nhà. Góc học tập của bé Thúy cũng được đặt ở căn phòng này, với bàn ghế đúng tiêu chuẩn, bảng đen gọn gàng và đèn đuốc sáng choang. Buổi dạy đầu tiên được chừng một tiếng đồng hồ, chị Nhân mang lên một ly nước cam vắt, kèm một đĩa bánh ngọt mời tôi “bồi dưỡng”. Thật chu đáo. Những buổi dạy sau cũng vậy, khi thì nước ngọt Pepsi đi đôi với bánh bao, khi thì trà đá lạnh với bánh su kem, khi thì nước sâm lạnh với bánh Patéchaud nóng giòn…

Tôi về khoe với mấy bạn trong nhóm, đứa nào cũng mừng cho tôi, nói rằng tôi “có phước”. Không như thằng Tiên, nhận dạy kèm cho quý tử nhà nọ, chỉ uống “sô-đa giếng” khan khan, tối mò về phòng lục cơm nguội. Không như thằng Tiến ngồi dạy cho con người ta mà cứ bị một người sàng qua sàng lại canh chừng với đôi mắt đầy cảnh giác, hình sự. Tôi được thoải mái tự do trong những buổi dạy vì được anh chị Nhân tin tưởng tuyệt đối. Dạy hết giờ thì về, chẳng ai coi ngó hạch hỏi gì, đã vậy mỗi lần về còn được xách thêm quà cho bạn bè cùng nhóm ăn một bụng trước khi ngủ. Bánh ngọt, chuối, cam, chè đậu… đủ thứ là những món anh chị Nhân bắt tôi phải mang về sau mỗi buổi dạy. Anh Nhân thân mật nói:

 “Đừng ngại gì hết, anh chị rất hiểu và thông cảm cho cuộc sống sinh viên ở trọ, xa nhà…”

Dạy mới được chín buổi, anh Nhân tự động hỏi tôi:

“Em có cần ứng tiền trước không?”

 Dĩ nhiên là tôi nói cần, và được anh trao đủ năm trăm ngàn đồng để “đem về là lo cơm nước, sách vở ”. Các bạn trong nhóm chúc mừng cho tôi “buồn ngủ gặp giường nệm”, thật không sai.

Một hôm, dạy xong, tôi chuẩn bị xuống gác, thì anh Nhân từ nhà dưới bước lên. Anh thân thiện vỗ vai tôi, hỏi:

“Em có thích đọc sách không? Cứ chọn trên các kệ sách của anh kìa!”

Tôi lúng túng chưa kịp trả lời, anh Nhân kéo tôi lại đứng trước kệ sách, rút ra một cuốn đưa tôi. Tôi cầm lấy, nhìn tựa đề: Tâm hồn cao thượng của Edmond De Amicis. Anh giúi vào tay tôi cuốn thứ hai: Đông Tây kim cổ tinh hoa của Thái Bạch. Tôi chưa kịp nói gì thì cuốn thứ ba đã trao tiếp: Bố già của Mario Puzo. Tôi cầm ba cuốn sách nặng trịch cả tay, định nói nhưng đã bị anh Nhân ngắt lời:

“Cứ mang về, khi nào rảnh thì đọc, không đọc thì bạn bè đọc chứ không ế đâu. Còn như đọc rồi thì hãy đọc lại, nghiền ngẫm cho kỹ từng ý tứ ngôn từ. Khi nào đọc xong, đem trả, đổi máy cuốn khác. Mỗi cuốn sách là một con đường. Cuốn sách chưa được đọc là một nẻo đường ta chưa đi qua. Nếu đã đọc rồi thì là con đường ta cần đi lại một lần nữa để khám phá những điều ta lơ đễnh bỏ qua. Hãy đọc đi, thay vì ngồi tán gẫu với bạn bè!”

Tôi ngần ngừ. Anh Nhân cười nhẹ nhàng:

‘Em có thắc mắc rằng tại sao là ba cuốn này mà không phải là ba cuốn sách khác không?”

 Tôi ngần ngại:

 “Dạ… em cũng định hỏi. Em thấy hình như ba cuốn sách này “chỏi” nhau. Chúng không cùng một tông, một hệ, phải không anh?”

Anh Nhân cười ha hả, gục gặc:

“Một cuốn thuộc dạng xã hội đen bắn giết, gây tội lỗi đầy đầu. Một cuốn nói chuyện xưa chuyện nay, chuyện Đông chuyện Tây ở đâu đâu. Và một cuốn kể về những câu chuyện tuyệt đẹp. Tuy thấy chúng “chỏi” nhau như em vừa nói, nhưng thật ra chúng có thể hòa hợp gắn bó nhau thành một thang thuốc bổ qúy báu đó!”

Tôi bần thần mang ba cuốn sách về. Đêm ấy, tôi không ngủ được, cứ nằm mà đọc cuốn này một đoạn, cuốn kia một khúc, cuốn nọ một chương… làm mấy đứa bạn kinh ngạc. Bởi tôi rất lười biếng đọc sách, truyện. Thằng Đạo thấy lạ lạ, cũng mượn cuốn Bố già đọc thử chơi chơi, rồi bị cuốn hút đến quên ngủ để giữ gìn sức khỏe. Tôi biết một điều, nó đọc truyện vì lẽ khác, tôi đọc sách vì lẽ khác, hoàn toàn khác nhau. Tôi đọc, vì anh Nhân bắt tôi phải đọc. Còn Đạo, nó đọc vì khoái truyện hình sự thanh toán nhau. Đến buổi dạy tối chủ nhật, vừa gặp tôi, anh Nhân đã hỏi:

“Đọc được gì chưa?”

“Dạ, cảm ơn anh. Em đọc mỗi cuốn một ít”

Anh Nhân bỗng chìa ra mấy cây bút bi, xanh đen đỏ đủ cả, nói:

“Cất mà dùng. Chút nữa về, anh tặng cho một ít sổ ghi chép, vở tập để có mà học tập cho tốt!”

Khi về, tôi nhận ba cuốn sổ giấy carô còn mới cứng, cùng với năm tập vở loại 200 trang từ anh Nhân. Trên đường đi, tôi như kẻ mất hồn. Chỉ có tôi mới hiểu vì sao tôi đang bị ray rứt lương tâm, vì sao tôi đang xấu hổ. Ồ không, không phải chỉ có tôi hiểu, mà còn có một người thứ hai hiểu được, đó là anh Nhân. Mấy đứa bạn tôi thấy tôi mang quà về, đứa nào cũng phát ghen, chúc mừng tôi “trúng mánh”. Tôi đau xót cả lục phủ ngũ tạng mà đâu có ai hay.

Đến buổi dạy tiếp theo, tôi dồn một mớ sách vở bút viết lại đầy túi xách, lấy hết can đảm để đối diện với anh Nhân. Lúc ấy, chỉ còn tôi và anh trên gác, tôi thật lòng:

 “Em xin lỗi anh chị. Em vô cùng biết ơn anh chị. Vô cùng cảm ơn anh đã dạy dỗ, đã khuyên bảo em những bài học quý giá!”.

Anh Nhân bình thản, im lặng. Tôi lôi những thứ trong túi xách ra, đặt hết trên bàn. Ngoài ba cuốn sách anh Nhân cho tôi mượn, mấy cây bút bi anh Nhân tặng tôi, còn có hai cuốn sách khác, và một cây bút máy hiệu Paker còn mới nằm trong hộp lót vải nỉ đỏ. Hai cuốn sách khác, một là cuốn Thả một bè lau – truyện Kiều qua cái nhìn Thiền quán-của Thiền sư Nhất Hạnh, cuốn còn lại là Thiền học Việt Nam của Giáo sư Nguyễn Đăng Thục, tôi đã ăn cắp của chủ nhà vào hai lần trong giờ dạy kèm bé Thúy. Cây bút Paker kia cũng vậy. Tôi đã cuỗm lấy, lận vào lưng quần mà cứ ngỡ sẽ chẳng ai hay. Thêm hai cuốn sổ carô bìa simili còn mới nguyên tôi đã lén lấy trước khi ra về nữa. Té ra, mọi thứ trong phòng dù nhỏ bé mà biến mất đi anh Nhân đều biết. Tuy không bắt được tay, day được cánh, anh Nhân vẫn thừa biết thủ phạm chính là tôi, vì có lẽ chỉ có tôi được phép lên gác trong thời gian xảy ra mất cắp lặt vặt.

Không nói mà như nói. Không dạy mà như đã dạy. Anh Nhân đã làm tôi sáng mắt, thức tỉnh dù anh không phải là một vị giáo sư đứng trên bục giảng đường. Tôi ngồi lặng thinh, chờ đợi. Anh Nhân cười:

“Em thông minh và dũng cảm lắm. Anh rất khâm phục những người thông minh và dũng cảm. Thông minh là trí tuệ. Dũng cảm là đại hùng đại lực. Hãy quên chuyện đã qua đi. Anh chỉ muốn nhắc em một điều: Với một tâm hồn cao thượng, em sẽ vượt qua mọi nẻo đường, cho dù đường lắm chông gai và cạm bẫy!”

Tôi ứa nước mắt, nhìn thẳng vào mắt anh. Anh Nhân cười khà khà, đứng dậy:

Cố lên! Tên lính nhỏ trong đoàn quân lớn lao kia! Cố lên! Con ơi! Lấy sách vở làm khí giới, lấy lớp học làm quân đội, lấy thế giới làm bãi chiến trường, coi sự ngu dốt là cừu địch, và lấy sự văn minh của nhân loại làm cuộc khải hoàn, con phải phấn đấu luôn luôn và chớ hề làm tên lính hèn nhát!

Tôi xúc động trân trân nhìn anh. Anh mỉm cười sau khi đọc lên sang sảng đoạn văn ấy với vẻ phấn khích. Rồi anh trầm giọng:

“Đó là đoạn văn anh học thuộc lòng từ năm lớp Tư trước năm 1975, trích từ chương Học đường, trong cuốn Tâm hồn cao thượng đó, em ơi!

Anh bước lại ôm lấy tôi, vỗ vai, vỗ lưng thật trìu mến. Tôi cảm thấy mạnh mẽ hơn lên, để rồi gọi lên trong niềm hạnh phúc:

“Thầy! Thầy ơi! Em cảm ơn thầy!”

                                                                                      

MÃN ĐƯỜNG HỒNG

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/08/2010(Xem: 3501)
Tác-giả Thiện Xuân Malkhanova là một con người thật đặc-biệt. Còn nhớ năm 2000 khi chị Trương Anh Thụy và tôi đi sang họp Đại-hội Văn-bút Thế-giới ở Mạc-tư-khoa, chúng tôi đã để ý đến chuyện đi đường, gặp con sâu róm ở dưới đất, chị đã ân cần lấy một cái lá nâng nó lên rồi đặt nó lên một cành cây gần đó. Một con người từ-bi đến với cả cỏ cây, đất đá! Chị bảo đó là điều chị đã học được từ đạo Phật.
04/08/2010(Xem: 3134)
Không biết từ lúc nào, mà ngôi tịnh thất vô danh thấp thoáng dưới tàn cây huỳnh đàn rậm lá trên đỉnh núi Ông cheo leo mây mù đong đưa bao phủ quanh năm, đã được dân quê dưới chân núi ưu ái gọi là am Mây Ngàn thay thế cho cái tên “chòi đạo Ân” mà họ hùa nhau ám chỉ túp lều lá của sư Từ Ân ngày trước. Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh... lặng lẽ lên tận đỉnh, khai phá được một khoảnh đất nhỏ làm rẫy. Sư bắt đầu trồng các loại rau đậu, khoai, bắp, cà dưa... để sớm gặt hái hoa lợi,
20/07/2010(Xem: 8763)
Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, tất cả mọi hành động bằng thân, lời và ý đều xuất phát từ hai tiêu chuẩn đó nhằm đem lại lợi lạc cho mình và tha nhân. Đây là những đức tính rất cơ bản để phát triển về Giới-Định-Tuệ mà một người muốn thăng tiến về mặt tâm linh thì cần phải quan tâm và thực hiện một cách triệt để.
17/07/2010(Xem: 3894)
Đêm qua con nghe bài pháp “Vượt qua oan gia trái chủ”của thầy Thích Tâm Đại, cảm thấy bàng hoàng, sửng sốt, mồ hôi ướt lạnh. Hóa ra, trong quá khứ, con đã tạo vô lượng tội, gieo vô lượng oán thù, oan gia trái chủ.
25/06/2010(Xem: 4274)
Vì không biết sự vận hành nội tại nên hầu hết mọi người trên thế gian không ai nhận ra chính mình và cũng không đồng ý với chính mình. Có người nương vào thể chất như thân thể cao lớn, mạnh khỏe, sắc diện đẹp đẻ, sáng sủa thù thắng …và cho đó là ta. Có vị lấy tri thức như bằng cấp học vị là mình như tiến sĩ, bác sĩ hay kỹ sư v.v. Có vị lấy danh vọng chức tước như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng v.v.làm ta.
25/06/2010(Xem: 7419)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
02/06/2010(Xem: 2751)
Đó là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot (chú thích người dịch: 926 km/giờ). Lúc đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20. Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một
03/04/2010(Xem: 2963)
Đạo vốn vô ngôn; do ngôn mà hiển đạo, thế nên có mạn lục, có bảo huấn, có bút ngữ, có võ khố. Nay đây, có Hòa thượng Văn Thủ, tự Nhất Ty (1607 – 1648) người nước Nhật Bản, lúc đầu ở ẩn nơi Tây Cương thuộc đất Lạc Tây, về sau Ngài về núi Đan mai danh ẩn tích. Nhưng các hàng xuất gia khắp chốn hải hồ tìm đến bên Ngài kết am tranh tu học số đông không kể xiết. Rốt cuộc, danh Ngài thấu đến cửu trùng, vua thỉnh Ngài trụ trì hai chùa Pháp Thường và Linh Nguyên, ban hiệu là Định Huệ Minh Quang Phật ĐảnhQuốc Sư. Những khi nhàn rỗi, Ngài xem lại gương xưa góp nhặt những di ngôn, vãng hạnh của Phật Tổ và thêm vào đó lời phẩm bình biên tập lại thành bộ Truy Môn Bảo Tạng Tập (trong bản dịch nầy tạm lấy nhan đề là Kho Báu Nhà Thiền). Bộ sách nầy thật là cây đuốc huệ trong đường tăm tối, là thuốc hay cho người bệnh, chẳng những lợi cho người đương thời mà cũng là tiếp độ kẻ hậu côn, thật không có gì hơn vậy. Than ôi! Vào niên hiệu Bảo Vĩnh vì ảnh hưởng thời cuộc nên đâu có khắc bản và muốn lưu hàn
21/02/2010(Xem: 4440)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567