Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyện thơ Phật giáo: Bốn Sinh Mạng Bám Khúc Cây

19/10/201822:09(Xem: 13084)
Truyện thơ Phật giáo: Bốn Sinh Mạng Bám Khúc Cây

phatthichca_painting1
BỐN SINH MẠNG

BÁM KHÚC CÂY

 

Ở Ba La Nại xa xưa

Trị vì là một vị vua lâu đời

Vua sinh ra một con trai

Lớn lên độc ác ít ai sánh cùng

Kiêu căng, bạo ngược, tàn hung

Khiến người hầu cận, tùy tùng không ưa

Trong triều đình, ngoài cung vua

Mọi người tránh né chàng từ lâu nay

Như xa quỷ đói quanh đây

Như xa rắn độc thường hay cắn người

Danh chàng nổi khắp mọi nơi

“Ông hoàng Ác Độc” tiếng đời tanh hôi.

*

Một hôm hoàng tử đi bơi

Tới dòng sông nọ êm xuôi sóng vàng

Nhiều người theo phục vụ chàng

Bỗng đâu giông tố phũ phàng nổi lên

Đất trời mù mịt bốn bên,

Tỏ ra anh dũng vượt trên hàng đầu

Chàng ra lệnh vài quân hầu

Theo chàng giỡn sóng há đâu sờn lòng:

“Đưa ta ra tắm giữa dòng

Tắm xong trở lại bờ sông bên này.”

Đám quân hầu kinh ngạc thay

Nhưng đành tuân lệnh chàng ngay tức thì,

Khi bơi ra giữa dòng kia

Họ ngầm đồng ý: “Còn chi may bằng

Đây là dịp quý như vàng

Chúng ta hãy thủ tiêu hoàng tử đi,

Con người ác độc kể chi

Nhà vua nào có dễ gì biết ra,

Tên ác quỷ, đồ yêu ma

Thân vùi sông nước, chúng ta được nhờ.”

Nói xong là họ bất ngờ

Dìm chàng hoàng tử rất ư bạo tàn

Xuống dòng sông cuộn sóng vàng

Bão giông gầm thét ầm vang hãi hùng.

Khi quay trở lại bờ sông

Mọi người vặn hỏi, họ cùng nhau thưa:

“Chúng tôi phải trở lại bờ

Chắc là hoàng tử bơi xa trước rồi

Về Ba La Nại êm xuôi

Ông bơi giỏi nhất trên đời thua ai.”

Mọi người về lại lâu đài

Khi vua cha hỏi con trai của mình

Cả đoàn vội vã tâu trình

Tưởng rằng hoàng tử về thành từ lâu,

Vua bèn tụ họp quân hầu

Đi tìm hoàng tử nào đâu thấy gì.

Lúc này ngoài bến sông kia

Gió mưa ào ạt, bốn bề tối đen

Sóng xô hoàng tử nổi chìm

Tưởng như thần chết kề bên bắt người

May thay tay với tới nơi

Thân cây khô nọ đang trôi giữa dòng

Chàng bèn nắm chặt chẳng buông

Khóc than sợ chết não nùng canh thâu.

*

Trước đây có một nhà giàu

Ở Ba La Nại, ốm đau qua đời

Ông ta chôn giấu một nơi

Tiền vàng trị giá bốn mươi triệu đồng

Kho tàng vùi tại bờ sông

Luyến lưu tài sản nên ông hóa thành

Một con rắn bò quẩn quanh

Quanh nơi chôn giấu để canh chừng vàng.

Gần nơi đó có một chàng

Chết đi cũng giấu kho tàng bờ sông

Tiền vàng ba chục triệu đồng

Vì tham tài sản trong vùng nói trên

Chết rồi mà vẫn không quên

Tái sinh làm chuột bò bên kho tàng.

Khi trời giông tố phũ phàng

Rắn cùng với chuột sóng vàng cuốn trôi

Tổ thời nước ngập mất rồi

Cả hai sợ chết nên bơi vội vàng

Vừa khi hoàng tử trôi ngang

Khúc cây khô đó giữa đường cứu nguy

Rắn và chuột mừng kể chi

Mỗi con bám lấy cây kia một đầu.

Trên bờ sông mọc từ lâu

Cây bông gòn nọ vươn cao lá dầy

Vẹt xanh làm tổ bao ngày

Hôm nay bão lớn nên cây đổ nhào

Chìm vào sóng nước thét gào

Vẹt ta muốn trốn nhưng nào dễ bay

Nên đành đậu lại khúc cây,

Bốn sinh mạng bám tại đây chòng chành

Cùng nhau “hoàng tử triều đình

Kề bên rắn, chuột, vẹt xanh” xuôi dòng.

*

Có ông thầy ở ven sông

Đang tu khổ hạnh, sống trong túp lều

Rừng khuya nghe vẳng tiếng kêu

Từ tâm nổi dậy thầy liều cứu nguy

Nhảy sông kéo khúc cây kia

Vào bờ yên ổn há chi ngại ngần

Bốn sinh mạng được an phần

Về lều hong lửa vô ngần mừng vui

Thầy cho sưởi ấm thân người

Rồi cho ăn uống nghỉ ngơi tốt lành,

Chỉ riêng hoàng tử bất bình

Vì thầy không tiếp đãi mình ưu tiên

Vừa bực bội, vừa muộn phiền

Chàng ôm mộng trả thù riêng sau này.

Sau khi khoẻ khoắn ít ngày

Nạn nhân từ biệt ông thầy ra đi.

Rắn thưa: “Ơn huệ khắc ghi

Bạc vàng thầy có cần chi sau này

Gọi con, con sẽ đến ngay.”

Chuột thưa: “Xin nhớ ơn thầy há quên

Khi thầy cần bạc cần tiền

Gọi con con sẽ dâng liền tạ ơn.”

Vẹt: “Con chỉ có gạo thơm

Họ hàng con sẽ kính dâng biếu thầy.”

Cuối cùng từ biệt nơi đây

Chàng kia sân hận còn đầy, vẫn thưa:

“Sau này tôi lên làm vua

Thầy cần chi tới tôi đưa cúng dường.”

*

Bốn mùa xoay chuyển bình thường

Ông thầy một buổi rời rừng ra đi

Thử lòng bốn nạn nhân kia

Xem lời ơn nghĩa còn gì hay không

Thầy đi dọc suốt bờ sông

Gọi tên rắn, chuột để mong giúp mình,

Cả hai đều rất nhiệt tình

Kho tàng chôn giấu tâm thành chỉ ngay

Thầy đâu có nhận hôm nay

Hẹn quay lại lấy một ngày tương lai,

Khi thầy lên tiếng: “Vẹt ơi!”

Vẹt bay ngay lại nhắc lời hứa xưa

Sẵn sàng thực hiện bây giờ

Thầy vui nói vẹt cứ chờ ít lâu.

Cuối cùng thầy rảo bước mau

Về kinh đô để ngõ hầu gặp vua

Ngài đi khất thực hiền từ

Đi quanh đường phố để chờ vào cung.

Chợt đâu đám rước tưng bừng

Bất ngờ đi tới vô cùng oai nghi

Vua là hoàng tử xưa kia

Giờ lên ngôi báu trị vì quốc gia

Lưng voi vua cưỡi kiêu sa

Trang hoàng lộng lẫy thật là đẹp thay

Chợt vua trông thấy dáng thầy

Nhủ thầm: “Thuở trước tên này khinh ta

Giờ đây không cửa không nhà

Lang thang khắp chốn để mà ăn xin

Về đây hắn sẽ phao tin

Kể công cứu giúp, gây phiền lắm đây

Ta nên trừ khử hắn ngay.”

Vua ra lệnh bắt trói thầy giải đi

Mỗi khi tới ngã tư kia

Lại dừng chân đánh rất chi đọa đày

Lệnh vua: “Hãy giải tên này

Ra ngoài thành phố phơi thây, chặt đầu

Làm gương cho kẻ về sau

Xin ăn quen thói từ lâu biếng lười.”

Quân hầu theo đúng lệnh thôi,

Dù thân tơi tả, dù người đớn đau

Miệng ngài chỉ nói một câu:

“Cổ nhân đã dạy đúng sao vô cùng

Vớt cây củi mục giữa dòng

Còn hơn vớt kẻ tanh lòng, vô ơn!”

Chung quanh dân chúng nghe than

Cùng nhau thắc mắc hỏi han ông thầy

Thầy bèn kể lại cho hay

Đầu đuôi câu chuyện từ ngày cứu vua.

Dân nghe bất mãn vô bờ

La lên tức giận: “Ai ngờ manh tâm

Vô ơn, độc ác, bất nhân

Vua mà như vậy giúp dân được gì

Chỉ gây tai họa hiểm nguy

Hãy mau trừ khử, còn chi mong nhờ.”

Dân Ba La Nại bất ngờ

Tấn công vũ bão tên vua kia liền

Gươm đao, gậy gộc, cung tên

Giết vua độc ác chẳng thèm tiếc thương.

Tôn vinh thầy làm quốc vương,

Ngài lên cai trị bốn phương an lành.

*

Một ngày ngài rời kinh thành

Về thăm bạn cũ ở quanh sông vàng

Tùy tùng theo cả một đoàn

Rừng xanh, sóng nước âm vang tiếng ngài:

“Rắn ơi!” rồi đến “Chuột ơi!”

Cả hai xuất hiện. Giữ lời. Hiến dâng

Hai kho tàng chôn ở gần

Quốc vương ra lệnh cho quân đào về.

Rồi ngài gọi đến vẹt kia

Vẹt liền bay lại đứng kề một bên

Thưa rằng lời hứa chẳng quên

Họ hàng nhà vẹt xin tìm gạo ngay.

Ngài vui: “Thật tốt lành thay

Gạo thời để đấy, hôm nay chưa cần.”

Cả ba sinh vật quây quần

Theo chân bạn cũ nương thân triều đình

Quốc vương tiếp đãi nhiệt tình

Như là khách quý của mình từ lâu.

Quốc vương nhân hậu hàng đầu

Giúp người nghèo khó ai đâu sánh cùng.

Quốc vương ngự trị trong cung

Cùng ba sinh vật sống chung suốt đời

Luôn hòa hợp, mãi thảnh thơi

Đến khi quá vãng họ thời tái sinh

Đi theo nghiệp của riêng mình

Thật là tốt đẹp, hương lành thơm đưa.

*

Nhận Diện Tiền Thân

     Thầy tu khổ hạnh về sau làm quốc vương là tiền thân Đức Phật. Hoàng tử về sau trở thành vua độc ác là Đề Bà Đạt Đa. Rắn là Xá Lợi Phất. Chuột là Mục Kiền Liên. Vẹt là A Nan.

 

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

(thi hóa, phỏng dịch theo bản văn xuôi

FOUR IN A LOG

của Ven. Kurunegoda Piyatissa & Tod Anderson)

______________________________________________________

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/01/2015(Xem: 6786)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4953)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10213)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3695)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4922)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5125)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7999)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4319)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13625)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
06/12/2014(Xem: 3740)
T huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]