Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một ngàn con song sanh.

10/04/201312:52(Xem: 4127)
Một ngàn con song sanh.

Một ngàn con song sanh

Thích Nhật Từ


Bốn người chồng đang hồi hộp ngồi chờ đợi về tin khai hoa nở nhụy của những bà vợ đang lâm bồn của mình trong phòng chờ của một nhà thương sản phụ nổi tiếng. Mười phút sau, cô y tá đi ra, vui vẻ nói với người đàn ông thứ nhất:

-- "Xin chúc mừng ông! Ông là cha của hai cháu sanh đôi."

-- "Thật là sự trùng hợp lạ lùng!" Người đàn ông hảnh diện phân trần, "tôi làm trong công ty giao thông hai chiều ấy mà."

Cô y tá đi vào trong rồi nửa tiếng sau, cô đi ra và nói với người đàn ông thứ hai:

-- "Ông là cha của ba cháu song sinh!"

-- "Thật là trùng hợp không thể tưởng tượng!" Ông vừa cười vừa mừng rỡ nói, "tôi là người quản trị của một khác sạn ba sao trong thành phố lớn."

Một tiếng sau, trong khi hai người đàn ông đầu đang phì phà nhả khói tâm sự thì cô tá lại đi ra, chúc mừng người đàn ông thứ ba, một người đang ngồi hồi hộp trong một góc phòng:

-- "Thưa ông, vợ của ông vừa sanh bốn cháu trai kháu khỉnh!"

-- "Thiệt không đó? Cô bảo vợ tôi sanh bốn à?" người đàn ông nửa tin nửa ngờ nói.

-- "Lại có trùng hợp nữa sao!" Cô y tá vội vàng hỏi.

Người đàn ông nói tiếp, "tôi không thể nào tin được! Tôi làm trong một công ty mang tên Thực Phẩm Bốn Mùa."

Khi nghe tin này, mọi người bắt đầu dồn hết sự chú ý sang người đàn ông thứ tư. Ông trở nên choáng váng rồi ngất xỉu trên nền phòng. Cô y tá vội chạy đến bên ông, đỡ ông dậy. Một hồi lâu sau khi tỉnh dậy, ông lẩm bẩm lập đi lập lại một câu nói đầy vẻ thất vọng, chán chường và ăn hận:

-- "Phải mà tôi không làm việc cho công ty điện toán thiên niên kỷ!!!" "Phải mà tôi không làm việc cho công ty điện toán thiên niên kỷ!!!"

* * *

Câu nói thản thốt và ăn hận của người đàn ông thứ tư "Phải mà tôi không làm việc cho công ty điện toán thiên niên kỷ!!!" phản ánh một cách điển hình và sinh động cái thái độ "đồng hoá tính logic của các ngẫu nhiên thành chân lý của các sự kiện." Ông lầm nghĩ rằng ông sẽ là cha của một ngàn đứa trẻ song sinh, chỉ vì bị ấn tượng bởi ba trường hợp ngẫu nhiên của những người đàn ông khác! Thật là vô lý làm sao! Bụng dạ con người nào lại có thể chứa đựng một ngàn đứa con. Ấy thế mà ông lại nghĩ là thật rồi hốt hoảng và té xỉu. Thật là khôi hài và đáng tội nghiệp ông. Sự thật thì vợ ông chỉ sinh một mà thôi.

Phần lớn chúng ta cũng vậy. Chúng ta thường có khuynh hướng đánh đồng tính chất hợp lý của các suy luận, giả thuyết thành chân lý của các sự kiện. Không riêng gì số đông quần chúng, mà đại đa số các triết gia, những người đại diện cho tầng lớp trí thức của xã hội trong các thời đại, cũng vậy. Lịch sử triết học thế giới Đông Tây và kim cổ đã trở nên sai lầm khi nhìn chân lý qua góc độ của logic. Chân lý được họ đồng hoá với logic. Cái gì có logic cái đó là chân lý. Trong thực tế có hàng trăm ngàn sự kiện có logic nhưng trái ngược với chân lý vô cùng, và ngược lại. Chân lý là những cái như chúng đang là, dù cho chúng có chứa đựng các thuộc tính của logic hay không. Chân lý vượt ra khỏi tính logic và phi logic. Chân lý là chân lý của các sự vật như chúng đang hiện hữu. Đó là tính tương duyên và tương thuộc của mọi hiện hữu.

Cuộc đời chứa đầy dẫy sự tình cờ và ngẫu nhiên như vậy đó! Nhiều người có khuynh hướng lý giải sự ngẫu nhiên như một sự an bài của Thượng đế hay đấng Tạo vật, mặc dù chưa ai trong số họ đã thấy biết mặt mủi thật của vị Thượng đế hay đấng Tạo vật này. Người ta đã ghán cho Thượng đế những thuộc tính để biện hộ cho giả định của mình. Nào là Thượng đế là thực tại tuyệt đối. Thượng đế vượt khỏi mọi giả định, suy tư và diễn đạt của con người. Thượng đế siêu vượt mọi giá trị. Ngôn ngữ và kiến thức của con người thật là giới hạn trong khi thượng đế là vô hạn. Lấy cái hữu hạn để lý giải về cái vô hạn là một sai lầm. Nói chung, con người không thể hiểu được Thượng đế. . . Nhưng thật ra Thượng đế nào có hiện hữu bao giờ. Thượng đế xuất hiện trong lịch sử tưởng tượng của loài người lúc đầu dưới hình thức của những gì không lý giải được, và dần dà trở nên tín ngưỡng hoá và triết lý hoá. Nếu có một nguyên nhân khởi thuỷ của vũ trụ thì cái gì là nguyên nhân của cái khởi thuỷ đó? Chỉ cần một câu hỏi như vậy thôi cũng cho thấy được tính mâu thuẩn của các giả định về một Thượng đế bất thật. Nếu thượng đế có mặt thì thật sự ông là người tàn nhẫn và vô nhân đạo nhất. Ông đã tạo ra giai cấp trong các tạo vật của ông. Ông phân chia con cái của ông thành nhiều màu da và chủng tộc để chúng đấu tranh và cai trị nhau. Ông đã tạo ra thiên tai, lũ lụt, bệnh tật, tai nạn, đau khổ cho toàn thể thọ tạo để khi có ai cầu khẩn van xin, ông ban chút ân huệ. Ôi, ông thượng đế mà người ta tôn thờ do hiểu sai về bản chất duyên khởi và tương thuộc của vũ trụ thật là hiểm ác, bất công và đáng ghê tởm. Trong lịch sử nhân loại có biết bao nhiêu cuộc chiến đẫm máu chỉ vì họ nhân danh ông Thượng đế bất thật đó. Ôi sự sai lầm trong nhận thức đã làm cho vấn đề trở nên vô cùng tồi tệ và đau thương!

- o0o -

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 20248)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3853)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8361)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7932)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9438)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4696)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2911)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4069)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3724)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 3769)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]