Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghề Đuổi Quạ

10/04/201312:47(Xem: 4768)
Nghề Đuổi Quạ

_____________________________________________________________

chutieuve_1Nghề Đuổi Quạ

Vĩnh Hảo


Theo qui chế nhà chùa, sa di, tức là danh từ gọi chung cho các chú tiểu , được chia làm hai hạng : hạng thứ nhất tuổi từ 7 đến 12 gọi là �sa di khu ô�, hạng thứ 2 tuổi từ 13 đến 19 gọi là �sa di ứng pháp� Hạng thứ 2 được coi là đã thuần thục nhờ đã trải qua một thời gian tập sự trong chùa, mặt khác vì ở trong lứa tuổi phát triễn nên có thể giúp cho chùa nhiều việc quan trọng như tưới cây, quét dọn, lau chùi, làm việc đồng án nếu chùa ở vùng quê, tụng kinh, tiếp khách khi Thầy đi vắng v..v...

Chữ �ứng pháp� có thể hiểu nghĩa đen là có khả năng thích ứng thực hiện nhiều pháp sự trong chùa. Còn hạng thứ nhất sa di khu ô thì theo nghĩa đen thật đen thì chỉ là sa di đuổi quạ, là vì ở cáituổi quá nhỉ, các chú tiểu ở hạng này không vác nỗi cái chổi cao hơn mình, không xách nỗi thùn nước nặng bằng mình, không dơ nỗi cây cuốc dài gấp đôi thân hình mình , cái gì cũng không nỗi,không xong thì chỉ còn cách chia phiên các chú đuổi quạ, đuổi chim, không cho chúng ăn thóc lúa đậu mè hoa quả của vườn chùa. Công việc duy nhất và dễ nhất cho các chú hằng ngày là như vậy, cho nên gọi các chú là sa di khu ô tức là đuổi quạ .

Các Thầy Trụ trì khi nuôi các chú tiểu ở lứa khu ô biết rằng các chú không làm được việc lớn nên phải kiếm một việc nho nhỏ nào đó mà giao cho các chú để các chú khỏi ở không ; điều đó chẳng phải là chèn ép gì các chú vì đuổi quạ cũng giống như chơi đùa chẳng mệt nhọc chi hết mà cũng là một trongnhững sự trau luyện trong thiền môn đó thôi .

Thứ nhất sự làm việc của các chú, dù là việc nhỏ, cũng được xem như những đóng góp vào việc chung của chùa để các chú khỏi mang tiếng là �ngồi không mà ăn cơm bá tánh� . Thứ hai cách chia công việc cho các chú cũng là các tập cho các chú có trách nhiệm đối với các công việc mà chùa giao phó. Cứ theo qui chế như trrên mà nói thì lẽ ra không có các chú tiểu từ 4 đến 6 mà nhỏ nhất cũng phải là 7 tuổi . Có lẽ từ xưa qui chế đó được chấp nhận có nghĩa là những chí tiểu xuất gia phải từ 7 tuổi trở lên . Còn thời nay người ta thấy ở nhiều chùa sự có mặt của các chú tiểu ở lứa dướI 7 tuổi ,điển hình là chú Hiếu ở chùa Phước Tân . Chú Hiếu mới có 5 tuổi thôi ,như vậy chí chưa đủ tiêu chuẩn để xếp vào hạng sa di đuổi quạ nữa ; nhưng Thầy Trụ Trì cũng đã cắt việc cho chú., coi chú như là hàng sa di đuổi quạ chính thức vậy . Có lẽ vì chùa cũng thếu ngườI đuổI qụạ nên Thầy mớI dành công việc đó cho chú . Được giao công việc chú thích lắm , chú cảm thấy mình được lớn, có khả năng làm việc. Công việc của chú trước đây do chú Hân đảm trách, nhưng chú Hân bây giờ đã được 13 tuổi rồi, đã qua cái tuổi đuổi quạ rồi ,vì thế chú Hiếu được bổ nhiệm sớm . Chuyện đi tu của chú Hiếu cũng là một đề tài khá ly kì . Cha mẹ chú kể rằng từ hồi mới biết ăn ,chú đã không ăn được cá thịt, cuí ddòi ăn rau cải quanh năm suốt tháng ; nhiều lúc sợ chú bị thiếu dinh dưỡng, cha mẹ chú nghiền thịt hay cá để nấu chung vớI rau cho chú , vậy mà chú cũng biết, bỏ ăn , có khi lở ăn thì ói thốc ra hết ,không chịu được mùi tanh cá thịt. Cho đến tháng Chạp năm ngoái, khi theo cha mẹ đến chùa thấy chú Hân ngồi đọc kinh dướI gốc cây chú Hiếu bèn nẩy ý xin đi tu . Chú xin nằng nặc đến độ giận lẫy, bỏ ăn ,không tắm rửa, đủ thứ chuyện ; cuối cùng cha mẹ đành phải chịu thua mang chú lên chùa. Chùa Phước tân là một chùa ở thôn quê, cái tên của chù thầy Trụ trì nói rằng nó chẳng mang một chút mùi thiền vị nào hết mà chỉ có y nghiĩa gắn bó vớI ngôi làng nhỏ này mà thôi : chùa Phước tân của làng Phước tân . Vì là chùa làng mọi sinh hoạt đều mang tính chất của làng xã địa phương ; dân trong làng làm ruộng làm vườn thì chùa cũng có ruộng có vườn để canh tác hằng ngày . Chùa có cả thảy 6 ngườI : thầy Trụ trì, thầy Tri sự , chú Hân, 2 vị vải già dướI bếp và chú Hiếu. Hẳng ngày thầy Trụ trì và thầy Tri sự cùng vác cuốc ra ruộng ; lúa cấy xong hai thầy vác cuốc ra vườn trồng rau, đậu. Ruộng vườn của chùa nhiều lắm nên hết mảnh đất này xoay qua mảnh khác hẳng biết lúc nào hai thầy mới nghỉ việc được ,ngoại trừ những ngày Viá và ngày lễ tết hoặc ngày Rằm Mồng Một . Chú Hân cũng vác cuốc đi theo hai Thầy từ ngày chú Hiếu lo việc đuổI quạ , nhưng chú Hân chẳng làm được việc gì ngoài ruộng, vườn trừ việc đem nước uống , đem bửa lở - tức là bửa ăn phát ra tận ngoài ruộng , để ăn qua loa mà làm việc tiếp- cho hai Thầy. Có khi chú giúp các Thầy trỉa đậu, trồng rau lang, những việc tương đối dễ dàng và không cần phải dùng nhiều sức . BuổI sáng sớm, sau khóa lễ khuya ,chú hân mang chỗI ra quét sân rồi vào quét tổ đường, trong khi thầy Trụ trì quét dọn chánh điện còn thầy tri sự thì tướI mấy chậu kiểng , hai vị vải già dưới bếp thì nấu ăn , quét dọn quanh bếp và vườn sau . Hai vị cũng lo việc xắc khoai lang khoai mì để phơi khô có khi các vị phơi lúa, phơi đậu ở mảnh sân xi măng bên hông chánh điện; ai cũng có nhiều việc để làm trong ngày , duy có chú Hiếu là rảnh rang nhất, chỉ làm mỗi công việc đuổi quạ mà thôi. Công việc của chú chỉ bắt dầu khi 2 vị vải khiêng bao bắp, bao luá ra sân, trút ra phơi khi nắng bắt đầu rọI đến mảnh sân đó . Chiều, khi trời sắp tắt nắng hai vị vải ra sân hốt lúa vào bao là chú hết trách nhiệm .Ao cũng cho rằng việc đuổi quạ là việc nhàn rỗi, dễ nhất . Ban đầu chú Hiếu cũng nghĩ vậy, nhưng khi bắt tay vào việc rồi chí mới thấy nó không đơn giản. Trước đây khi chú Hân còn làm việc đuổi quạ ,cứ mỗi lúc ngồi trông coi đồ phới thì mang kinh ra học , có khi đem giấy bút ra tập viết chữ Hán nữa ; còn chú Hiếu chưa biết chữ chẳng biết phải học hay làm gì cho đở chán trong suốt thờI gian ngồi trông coi bắp đậu . Ngòai ra chú Hân có cái thanh quản rất tốt, nói năng lớn tiếng như ểnh ương kêu, khi nào thấy có chim đến phá, chú Hân chỉ cần la lên một tiếng là chim bay hết. Còn chú Hiếu, giọng nhỏ xíu như con gà con mớI chui ra khỏi trứng, hét mãi mà chin cứ nhảy qua nhảy lại, tung tăng mà mổ . Nội 2 chuyện đó không đủ thấy việc đuổi quạ của chú Hiếu đã không phải là đơn giản rồi . Rất chán, chán quá, không biết làm gì chú đâm ra buồn ngủ ; chú ngồi dựa vào vách tường ngủ, rồi ngủ rất ngon . Chim chóc tha hồ đáp xuống mà mổ, mà ăn luá hao của chùa quá ! Chỉ có 2 vị vải mớI biết việc hao hụt đó . �Chẳng phải lúa bắp teo khô lại, mà thấy ít đi đâu ,tại chim ăn nhiều quá đó !� hai vị vải nói vớI thầy Tri sự như vậy khi Thầy giúp 2 vị vác các bao lúa vào kho . Thầy tri sự tuổI trẻ mà tẩn mẩn chăm chút từng thứ li ti ; có lẽ thầy Trụ trì giao cho việc tri sụ cũng vì biết cái tính ý tỉ mỉ của Thầy . Thầy tri sự không muốn làm rơi rớt bất cứ hôt thóc nào ; hẳn nhiên ở chùa xưa nay ai cũng học bài học vỡ lòng �phải biết trân quí hạt cơm như hạt ngọc� do công lao khó nhọc của nông phu làm nên ,nhưng trân quí đến cỡ thầy Tri sự này thì chữ � cơm chùa� không còn ý nghĩa nữa. Cũng bởi thầy Tri sự quá trân quí vật sản ỏ chùa ,dù là do bẩm tánh hay do tinh thàn trách nhiệm thầy không thể tha thứ cho chú Hiếu được. �Chú Hiếu, lại biểu ! � thầy tri sự nghiêm giọng gọI , chú Hiếu rón rén bước đến gần thầy, tay vân vê chéo áo và hò nâu chưa biết chuyện gì mà trông như đã muốn khóc .

- Hôm nay chú làm gì ở chùa ?

- Dạ, dạ, đuổI quạ .

- có con quạ nào không ?

- dạ không, con không biết con quạ

- con quạ cũng giống như con chim nhưng nó lớn hơn, màu đen , mỏ nó hơi dài như vầy . Ngưng một lúc thầy tiếp : không biết, không biết con quạ nào nên chú chẳng làm gì hết hả ? dì Bảy nói : chú ngồi ngủ mà ,phải không ?

- Dạ, đâu có

- Vậy chứ chú làm gì mà lúa mất đi đâu muốn hết ?

- Dạ, có mấy con chim nhỏ nhỏ như vầy nè, tụi nó ăn đó !

- Sao chú không đuổi chứ ?

- Dạ, con đuổi nó không chịu bay ! vớI lại đâu phải quạ đâu mà đuổi !

- Phật tổ ơi, quạ hay chim gì cũng đuổi hết, nhớ chưa ? còn đuổi thì nó phải bay chứ ! Chắc chú ngồi một chỗ rồi xì xì mấy tiéng có lệ thôi nên chúng không sợ chứ gì ? Chú đuổI làm sao ? chú làm lại cho tui coi thử coi !

Chú Hiếu ngập ngừng một lúc rồi vung hai tay lên la : uê uế ,

Thầy tri sự bật cười , rồi nhăn mặt than :

- Trời thần ơi, đuổi như vậy làm sao nó sợ chứ , uớ uớ như con thằn lằn chặt lưỡi vậy nè trời !

Thầy Trụ trì nghe được câu chuyện , bước ra vừa cười vừa nói :

- kiếm cho chú một cái thùng thiếc nhỏ với 2 cái dùi ,khi nào chim chóc tới thì cứ gõ rân trời lên là chúng hoảng kinh bay hết chứ lo gì ! giọng chú ấy đâu có kớnn được như giọng chú Hân mà la hét suốt ngày cũng khan cổ chết ,ai mà chịu nỗi !

- Thầy tri sự dù sao cũng là hàng đệt tử nên nghe thầyTrụ trì nói vậy cũng không bàn cãi gì thêm, liền đi tìm một cái thùng thiếc cho chú Hiếu . Chú đứng lại đó như trờI trồng, chẳng dám bước đi đâu , Thầy trụ trì thấy thương gọI chú lại :

- Con làm việc có mệt không ?

- Dạ không

- Có chán không ?

- Dạ, không chán

- Không chán ? Thiệt không nè ? Người xuất gia không được nói dối , thầy hỏi ;ại : đổi chim quạ có chán không ?

- -dạ chán

- Phải vậy chứ ! chán chứ sao không ! con chưa học nghề mà bắt đi làm thì sao không chán được ? Ở chùa, việc nào cũng có ý nghĩa riêng của nó cho nên việc nào cũng phải học hết ! Ngồi xuống đây, thầy dạy con cách đuổi quạ . A , có thùng thiếc đến cho con rồi kìa ! Tốt lắm, lại có 2 cái dùi đẹp như vầy, sướng quá ! lại dây !

Chú Hiếu bước lại gần thầy Trụ trì, thầy Tri sự cũng đứng qua môt bên để nghe thầy Trụ trì dạy chú Hiếu cách đuổi quạ ; thầy Trụ trì nói với thầy Tri sự :

- cái thùng thiếc này tốt lắm rồi nhưng nếu chú ấy phải mang đi bằng 2 tay thì không còn tay đâu mà gõ . Cho nên thầy phải đục 2 lỗ ở 2 bên miệng thùng mắc vào đây một sợi dây cho chú đeo trước bụng .Thầy tri sự cười dòn một tràng mang thùng thiếc đi ngay .Một chốc sau là Thầy ấy đã mang thùng thiếc có sợi dây làm quai trở lại . Chú Hân cũng theo thầy tri sự đến nghe thầy Trụ Trì dạy : thầy trụ trì tròng dây vào cổ mình , sửa cho chiéc thùng ằ ngay ngắn trước ngực ,ai cũng cườI , chú Hiếu chẳng dám cười , ngó thầy Trụ trì lom lom y� chừng không muốn bỏ sót động tác đuổi quạ nào mà thầy dạy cho . Thầy vừa gõ thùng vừa nói : leng keng, đuổi quạ cũng như quét rác, quét rác là quét cho sạch những phiền não, Thầy ngưng 1 lúc để tìm chữ dễ hiểu cho chú Hiếu, tức là những tính xấu ác của mình thì đuổi quạ cũng có nghĩa là đuổi đi những thứ tầm bậy tầm bạ phá hoại đờI sống tu hành của mình . Cái gì là tấm bậy tầm bạ biết không ? - là ham ăn, ham ngủ, ham chơi lười biếng học hành, lười biếng kinh kệ, ganh tị, ghen ghét ,sân si, ác độc, nói tóm tại là đủ thứ xấu xa của mình . NgườI t là một chiến sĩ anh dũng, xông ra trận chiến đãu với các thứ ma quỹ nhơ nhớp xấu xa ,đuổi cho chíng chạy, đánh cho chíng tan, không chịu thua một thứ phiền não nào hết .Quạ đâu, chim đâu ? ( tùng tùng, ) tụi bây là ma vương , phiền não, tới đây quấy phá chùa phải không ? ( tùng tùng, tùng tùng) - Có ta đây, ta đuổi bây . Mau chạy, mau bay , đừng xớ rớ đến nhiều chùa thanh tịnh của ta nữa , bay di bay di ! ( tùng tùng, tùng tùng) . Thầy Tri sự bụm miệng cười, chú hân cũng cười ngoặc ngoẽn, thầy trụ trì ngó chú Hiếu hỏi :

- Sao ? con đã học được cách đuổi quạ chưa ?

- Dạ chưa, dài quá con không nhớ hết !

- Ai bắt con học những gì thầy nói đâu mà dài với ngắn ? Khi thấy chim quạ tới, conn chỉ việc chạy u đến, vừa chạy vừa gõ thùng là được rồi ! đâu cần phải nói hay đọc cái gì ?

Mắt chú Hiếu sáng rỡ lên, chú nói :

- Dạ, vậy Thầy để con làm thử coi ! Nói rồi, chú đón cái thùng thiếc từ tay Thầy, tự tròng dây vào cổ mình vừa chạy chú vừa gõ �tùng tùng� một cách khoái chí. Chú chạy riết tới bãi phơi lúa

- chú Hân phân bì : bạch Thầy, hồi truớc con đuổi quạ Thầy đâu có dạy con như vậy ?

Thầy trầm ngâm một lúc :

Mỗi người có một tính nết , một căn cơ riêng , con sẽ giống như thầy Tri sự lau chùi, quét dọn, giữ gìn cho sạch đất chùa , tích chứa công đức không để sơ tán , làm gương mẫu giới hạnh cho đồ chúng mai sau . Chú Hân nghe Thầy dạy như vậy có vẻ thích ý lắm, tin tưởng tương lai của mình sẽ vững vàng suông sẻ như đường đi của thầy Tri sự. . Chú hỏi : Chú Hiếu không phải vậy há Thầy ? - � không� Thầy chỉ nói vậy

Lúc này chú Hiếu đã trở lại vớI mặt mày sáng rỡ. Thầy nói với chú trước khi trở vào phương trượng :

- mỗi ngày khi làm việc đuổi quạ , con hãy nghĩ rằng con là một anh hùng, một chiến sĩ chiến đấu với những điều xấu xa ác độc của cuộc đời, nhớ chưa con? vũ khí của con là cái thùng thiếc đó. Gióng nó lên để đuổi giặc như xưa đức Phật Thích Ca nói giáo lý Trung Đạo để phá tà ma ngoại đạo vậy. Không hiểu hả ? thôi đại khái là phải hết sức chiến đấu không chịu thua bao giờ hết , được chưa ? hiểu chưa nào ?

  • dạ hiểu , chú Hiếu đáp nhanh, tay không quên gõ (�tùng tùng� )

(Trích " Thiên Thần Quét Lá" của Vĩnh Hảo)

___________________

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5743)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4684)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4284)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37199)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5329)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8733)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4427)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13686)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 21032)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6651)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]