Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôi làm giảng sư.

10/04/201312:31(Xem: 4753)
Tôi làm giảng sư.


TÔI LÀM GIẢNG SƯ

Sen Thương

Vợ chồng người em gái tôi ở tận Gành Đỏ, Sông Cầu, điện thoại tha thiết mời tôi đến nhà thăm chơi. Từ ngày hai vợ chồng em đến đó lập nghiệp, tôi chưa đến thăm lần nào. Tôi lưỡng lự chưa muốn đi nhưng em gái tôi quả quyết rằng tôi sẽ rất thích: "Ở đó, chị mặc sức mà nghe biển hát, rừng thùy dương reo vi vu, cồn cát trắng mịn ngập ánh trăng níu giữ đôi chân của chị; nếu chị thích, em sẽ cất cho chị một cái am tranh nhìn ra biển để chị thiền định, sau giờ thiền định chị sẽ vẫy vùng bơi lội dưới biển, bảo đảm hoàn toàn yên tịnh, hơn chùa chị đó!". Nghe hấp dẫn quá, tôi vội khăn gói lên đường. Khi chiếc xe thồ dừng bánh trước một ngôi nhà nhỏ đơn sơ vách ván, vợ chồng người em tôi mừng rỡ đón tiếp tôi ân cần nồng hậu. Sau một hồi chị em hàn huyên tâm sự, em tôi kéo tôi ra nói nhỏ:

- Chị à! Có lẽ chốc nữa các cụ và Phật tử sẽ đến đây đón chị về chùa để tối nay chị thuyết pháp cho họ nghe, bởi vì nơi đây từ ngày thầy tịch, chẳng có bóng dáng Tăng Ni nào đến đây để thuyết pháp cả! Hồi sáng em có nói với Ban hộ tự là bữa nay chị đến nên họ đi chợ và chuẩn bị đón tiếp, họ mừng và muốn được gặp mặt chị, nhất là nghe em nói nhiều về chị, chị biết không? Từ ngày họ biết em có người chị đi xuất gia, họ tốt với em và giúp đỡ em rất nhiều, ở đây dân biển rất sùng đạo và rất tin tưởng, có nhiều người ăn chay trường nữa đấy!

- Phải đấy chị ạ! Chị nên giảng đạo ở đây vài ngày, họ có vẻ khao khát được giảng sư tưới cho vài cây mưa pháp. - Thấy tôi im lặng, em rể tôi lại bồi thêm.

- Trời ơi! Các em sao không nói trước, chị có biết thuyết pháp bao giờ đâu, mà cho dù biết thuyết pháp đi nữa cũng chẳng phải biết trước để chuẩn bị bài giảng nữa, đằng này các em làm chị bất ngờ quá, bây giờ tính sao đây?

Đến lượt các em tôi ngạc nhiên:

- Ủa, vậy mà em cứ tưởng đi tu là phải biết thuyết pháp chứ! Nghe đâu sau thời thuyết pháp họ sẽ tham vấn chị rất nhiều để học hỏi, em lỡ "nổ" về chị nhiều quá rồi, thôi cố gắng đi chị, thuyết đại đi mà!

- Khoảng bao nhiêu Phật tử?

- Thiện nam khoảng 40, tín nữ khoảng 30, vị chi dưới 100 người, bữa nay biết có chị nên họ về đông.

Tôi than thầm, cũng chỉ vì tính lãng mạn mà ra, nghe đâu phong cảnh đẹp là ham, từ hồi giờ chưa từng đứng trước bục giảng, hay trước thính chúng đông đảo để thuyết pháp bài bản bao giờ. Từ ngày làm trụ trì ở chùa quê đến nay, đã gần 20 năm, mỗi lần cúng hội, đông thì khoảng 20, 30 vị Phật tử quen thân, ít thì thưa thớt khoảng dăm bảy người, tôi cứ tự nhiên nói, không cần bài bản gì cả. Phật tử đến với tôi kẻ thì than về chồng con không biết lo, chỉ biết ăn, đánh đập, người thì rầu con bất hiếu, kẻ thì than túng thiếu, con đi học không có tiền đóng tiền trường, người thì than vợ phản bội, hư hèn, mùa màng thất bát, mưa gió bệnh hoạn, bị giật hụt v.v... đủ thứ chuyện trên đời, trong cái khổ đế của con người. Tôi chỉ biết lắng nghe và thật thông cảm trong nỗi khổ của họ, nói dăm ba lời an ủi, và chỉ rõ nguyên nhân vì sao khổ đang hiện hữu với chúng ta. Cuối cùng tôi khuyên họ cố gắng tu trong ba nghiệp thân, khẩu, ý, sám hối, tụng kinh, giữ năm giới, tạo phước bằng cách làm việc thiện, bố thí cúng dường, rồi nghiệp xấu tiêu mòn, phước đức tăng trưởng, sẽ thấy vui và hạnh phúc. Đã gần 20 năm tôi hướng dẫn tu như vậy đó, xuề xòa, dễ chịu, tu sao cũng được; có người lại khen tôi tu bình dân dễ hiểu, nhưng thú thật vì trình độ tôi chỉ có bấy nhiêu thôi, chẳng được học hành trường lớp bài bản thì làm sao có thể đứng trước đông đảo quần chúng thuyết pháp cho được. Bây giờ đây khi đứng trước một sự việc như thế này, rút lui không được mà đến cũng không xong, cũng không thể trách móc người em gái bép xép của tôi vì chính nó cũng nói người tu thì phải biết thuyết pháp, chỉ vì tôi bất tài, dốt nát mới nên ra cớ sự như vậy. Lòng tôi hãi hùng, mồ hôi toát ra như tắm, nếu tối nay mà tôi không xong việc thuyết pháp, bể dĩa thì có mà độn thổ như Tôn Ngộ Không, hoặc xách gói đi mất xứ vì hổ thẹn, đừng nói đến việc về chùa nữa.

Miên man với hàng trăm nỗi lo không tên, chợt vang lên tiếng em gái tôi đầy khích lệ:

- Tối nay em sẽ về chùa nghe chị thuyết pháp.

Tới nước này thì tôi chỉ biết cầu Thầy Tổ nhiều đời nhiều kiếp thương xót gia hộ cho tôi làm tròn bổn phận sứ giả Như Lai.

Sau khi cơm nước, nghỉ ngơi ở nhà ông Trưởng ban hộ tự cùng các bô lão, khoảng 18g30 họ đưa tôi đến chùa. Vừa bước vào sân thì chuông trống Bát nhã nổi lên chào mừng, trái tim bé nhỏ của tôi cũng đánh lô tô theo nhịp trống, thiếu điều muốn nhảy ra ngoài lồng ngực. Tôi nhủ thầm: "Em gái ơi là em gái! Em bày chi cảnh khổ cho chị như vậy, đang ở chùa bình an không muốn, cớ sao lại vào nơi chỗ dầu sôi lửa bỏng như vầy hả trời. Trăm lạy Thầy Tổ, ngàn lạy Thầy Tổ, hãy cứu vớt con tai qua nạn khỏi". Biển hát đâu không thấy, thùy dương reo đâu không thấy, mà giờ đây chỉ thấy trái tim mình đang réo gọi kêu cứu! Trong ánh hoàng hôn nhá nhem, ẩn sau khóm trúc, tượng của Mẹ hiền Quán Thế Âm sừng sững đoan nghiêm, với nụ cười hiền diệu bên hồ sen thoang thoảng hương thơm, tôi dừng lại kính cẩn chắp tay đảnh lễ, cầu Người gia bị. Quả nhiên lòng tôi cảm thấy an tịnh, tràn ngập sự huyền diệu nhiệm mầu của niềm tin vô bờ bến.

Tôi chậm rãi bước vào chánh điện đảnh lễ tôn tượng Đức Bổn Sư uy nghi, giữa hàng trăm con mắt đang đổ dồn về phía mình.

Sau khi đảnh lễ Phật và Thầy Tổ xong, tôi quay xuống nhìn hai hàng tín đồ, cố gắng mỉm nụ cười thật tươi, thật trìu mến, như để lấy lại sự tự tin. Sau khi tất cả hội chúng đã an tọa, tôi bắt đầu tán thán:

- Thật hiếm có, chùa không có thầy trụ trì, mà Phật tử tề tựu đông đủ để tụng kinh, bái sám như thế này thật hiếm có! Ni cô thành thật tán dương, khen ngợi quý đạo hữu.

Những nụ cười sung sướng nở trên gương mặt mọi người, sau đó ông Trưởng ban hộ tự giới thiệu vài lời về tôi. Sau khi mọi người cùng nhau niệm Phật cầu gia bị, tôi thong thả nói:

- Kính thưa chư Phật tử thân mến! Hôm nay Ni cô xin được nói về đề tài tu Lục độ hoặc là sáu pháp Ba la mật, đó là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Ở đây có Phật tử nào đã từng bố thí bao giờ chưa? Bố thí như thế nào? Tại sao gọi là bố thí không cầu danh và cầu danh? Bố thí gồm có tài thí, vô úy thí... công đức của sự bố thí, chia sẻ vì lòng thương vì từ bi, vì thấy thiếu, thấy cần mà chia sớt giúp đỡ, miếng khi đói bằng gói khi no, chứ không phải nghe được phước, được lời mà bố thí...

Thế rồi tôi dẫn chứng, ví dụ, kể những mẩu chuyện đời xưa đời nay, tôi say sưa thao thao bất tuyệt, rồi công đức của pháp thí lớn lao như thế nào, vô úy thí ra sao... Giọng tôi trầm bổng lên xuống, hết phần bố thí đến phần trì giới, công đức của người trì giới, giữ phẩm hạnh, quỷ kinh ma sợ, thánh thần ngưỡng mộ, loài người quý kính, là thành rào ngăn chặn tội lỗi cho mình v.v..., công đức của sự nhẫn nhịn, nhẫn nhục, một điều nhịn chín điều lành, nếu đi chùa tụng kinh bái sám, cúng dường bố thí mà không nhẫn nhịn, sân si ngợp trời thì coi như chưa tu chút nào, mà làm cho thế gian chê cười đạo Phật, và lợi ích thiết thực lớn lao của sự siêng năng tinh tấn, chẳng những giúp cho mình thành tựu trong việc tu hành mà còn sẽ thành công rất nhiều ở đời. Tôi hùng hồn như nhà biện sư, lòng run sợ biến mất tiêu, thỉnh thoảng thấy hai vợ chồng người em tôi gật gù mỉm cười, cử tọa im phăng phắc chăm chú nghe...

Thế là tôi đã làm giảng sư bất đắc dĩ tại một ốc đảo xa xôi ở Gành Đỏ được vài ngày, rồi lại trở về trú xứ quen thuộc. Nhưng mỗi khi nghĩ đến việc đã từng được làm giảng sư dù chỉ vài ngày, trong tôi chan chứa một niềm vui. Ở đó, dù ít dù nhiều, tôi cũng đã gieo xuống mảnh đất cát mặn của biển, của những tấm lòng thôn dân chân chất những hạt giống nhiệm mầu. Thỉnh thoảng, em tôi lại gọi điện ra mời tôi vô thăm "vì Phật tử cứ nhắc chị hoài", nghe thật hạnh phúc!.

--- o0o ---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7655)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8542)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7343)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6225)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7144)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5356)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4032)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8778)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23351)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4709)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]