Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cánh Hạc Mùa Đông

10/04/201312:17(Xem: 5432)
Cánh Hạc Mùa Đông

muadong_1

Cánh hạc mùa đông.

Lam Khê

Mùa đông về làm cho ngọn đồi thông thêm rộng thoáng. Không một chiếc lá cây rơi rụng. Không một bóng người lui tới để nghe tiếng bước chân dẫm dài trên đá sỏi. Không gian im vắng và thanh tịnh là thế; vậy mà mấy hôm nay bỗng nhộn nhịp đông đúc hẳn lên. Tiếng đại hồng chung từ ngôi chùa vang xa trầm ấm, đã trở nên một nhịp sống thiêng liêng quen thuộc đối với người dân ở quanh vùng. Du khách thập phương cũng ghé lại nhiều hơn để nghe Sư Ông thuyết pháp và tham quan chiêm ngưỡng mấy ngôi mộ cổ mang tính lịch sử của một thời vua chúa xa xưa.

Chú tiểu nhỏ bước ra sân quét dọn. Trời vẫn còn sớm, đầy sương mù và lạnh căm căm. Chú nhìn sang ngôi tịnh thất nhỏ có hàng chè tàu được cắt tỉa gọn gàng. Sư Ông đã đứng đó tự bao giờ. Người lớn tuổi lắm rồi. Một vẻ gầy gầy xương xương trông bộ đồ nâu bạc cũ, nhưng trông người vẫn còn phong độ qua dáng đi khoẻ mạnh tự tin, qua ánh mắt tinh tường, nụ cười đầm ấm an lạc. Và một giọng nói mang âm sắc nhẹ nhàng truyền cảm đặc biệt của người viễn xứ vừa trở lại Quê nhà sau nhiều năm xa cách.

Thầy đứng đó. Từ khi hồi chuông công phu khuya mới điểm, cho đến lúc hừng đông tỏ rạng, nhuộm thắm cả cánh rừng thông phía trước. Chiếc áo nhật bình khẻ run lên theo làn gió bấc hiu hiu se lạnh. Nhưng Thầy vẫn đứng yên, như sợ khoảng trời đầy riêng tư thơ mộng này vụt trôi nhanh theo tầm mắt. Ở đây lòng người không buồn theo cảnh sắc, mà cảnh sắc đang muốn thu hồn người vào đó. Một chuyến trở về thăm quê mang ý nghĩa nhiều hơn những gì Thầy mong đợi. Hình ảnh ngôi chùa làng còn in đậm nét rêu phong từ thời còn hành điệu. Những dãy nhà ngói, khu phố cổ ẩn mình bên hàng chè tàu mà năm tháng càng phô trương thêm vẻ kiều diễm khuất kín. Bao năm rồi cánh nhạn phong sương tung mây lướt gió. Có biết bao là cảnh đẹp, những kỳ quan vào bực nhứt thiên hạ, những công trình mang tầm cở của thiên niên kỷ mới. Vậy mà làng nhỏ quê nhà cứ làm lòng Thầy bâng khuâng náo nức mỗi lần nghĩ đến.

_ Bạch sư Ông, người choàng thêm chiếc áo khoác vào… kẻo trời còn lạnh lắm.

Thầy quay lại mỉm cười nhìn chú Tiểu, không cảm thấy phiền hà vì giòng tư tưởng bị cắt đứt:

_ Cám ơn chú. Cái lạnh này chẳng thấm vào đâu so với nhiều nơi thầy đã sống. Thầy muốn tìm lại chút cảm giác thân quen khi trở lại quê nhà đấy mà.

Không gian bỗng vang lên tiếng hót rộn ràng của muôn loài chim chóc. Những cánh chim mùa đông vẫn tụ về làm tổ trên những cành cây cao. Có lẽ vì đây vẫn còn nguyên sơ cảnh núi rừng yên ổn, chưa bị tàn phá bởi bàn tay con người và cơ chế máy móc. Cả cánh rừng lúc này trông như tấm thảm bạc trải rộng. Một vài khoảng trống vàng nhạt của nền trời xen lẫn tạo nên một khung cảnh hài hoà nên thơ mà dịu ấm. Ôi! Thầy đã từng nhìn thấy nhiều khu rừng thông tuyệt đẹp; những mùa đông đầy tuyết trắng, những đồi cây ẩn hiện trong màn sương bạc mênh mông. Vậy mà những cành thông mộc mạc quê nhà vẫn cứ mang một hồn sắc riêng trong lòng thầy. Nơi toả bóng cho một thời tuổi thơ yên ấm mà ước nguyện thanh cao vời vợi. Nhưng rồi cánh chim xanh lại sớm lìa xa tổ ấm…

Một chiều đông rét buốt. Có đứa bé trai từ vùng duyên hải cát trắng xa xôi xuôi về Thành phố rồi đi ngược ra ngoại ô, dừng chân lại trên ngọn đồi cao khi trời vừa xâm xẩm tối. Cậu bé lần bước lên từng bực thềm đá, tai lắng nghe tiếng tụng kinh trầm trầm vang lên từ ngôi chánh điện. Suốt buổi tối cậu ngồi nép sát vào hiên chùa để cố trốn những cơn gió bấc lùa về, nhưng hàm răng vẫn đánh mạnh vào nhau, bụng đói cồn cào, hai bàn chân sưng rộp và đau nhức. Thời kinh dứt đã lâu. Cánh cửa chánh điện kín mít chỉ toả ra chút ánh sáng tù mù từ mấy ngọn đèn dầu leo lét. Cậu bé vẫn ngồi yên, tợ như đang ngủ gục, cho đến lúc thầy tri khách bước ra sân đóng cổng:

_ A! cậu bé nào ngồi ở đây ri ? Trời tối rồi sao không về nhà?

Thầy dẫn cậu vào bên trong nhà Tổ. Sư trụ trì đang ngồi trên sạp gụ lần chuổi hạt.

_ Bạch Ôn… Chú nhỏ này không biết con nhà ai lại đến ngồi ngoài hiên chùa từ chập tối…

Sư mở mắt ra nhìn cậu bé đang ôm bên mình chiếc túi xách nhỏ. Người nhỏ nhẹ cất tiếng hỏi, những hạt chuổi đen tuyền vẫn lướt qua đôi tay gân guốc-:

_ Con từ đâu tới? Bỏ nhà đi phải không ?

Cậu bé run run phần vì lo sợ, phần vì lấy làm lạ_ Không hiểu sao Sư Cụ lại đoán biết:_ Dạ bạch Ôn …nhà con ở dưới quê xa. Con muốn đi tu. Xin Ôn cho con được ở lại đây.

_ Cha mẹ con còn không? Làm sao lại biết nơi này?

_ Dạ thưa… Con thích đi tu mà ba mạ không cho, vì con là con trai duy nhất. Tháng trước có một huynh trưởng về quê con sinh hoạt, nói chùa này có nhiều chú điệu đến tu và chỉ dẫn đường đi…

Thầy tri khách tiếp lời:_ Em ngồi co ro bên chái cửa. Con không ra, đến sáng chắc chết rét.

Ôn lặng lẽ ngắm cậu bé, lòng nghĩ ngợi miên man. Thằng nhỏ trông vẻ mặt khôi ngô mà đôn hậu. Vần trán cao với cặp mắt thông thái chứa đầy nhuệ khí, lại có lòng can đảm tánh chất trực đáng quý. Nếu tu được ngày sau ắt sẽ làm lợi ích cho đạo pháp đây_ Về sau Ôn mới nói ra điều suy nghĩ này. Lúc đó người chỉ ôn tồn bảo với thầy tri khách:_ Cậu bé chắc bụng đói lắm rồi, thôi theo thầy tri khách xuống nhà trù dùng cơm. Rồi thầy đưa lên nhà giảng ngủ, nhớ lấy chăn và áo đưa cậu mặc thêm cho ấm. Chuyện gì rồi ngày mai hẳn tính.

Sáng trở dậy Cậu bé ra sân phụ quét dọn và lau chùi bàn ghế. Mấy chú Tiểu thấy người lạ hơi bở ngỡ chốc lát, rồi nhanh chóng làm quen nói cười thân mật như bạn bè thân thiết từ lâu_ con nít mà. Dù có chút rụt rè, nhưng sắc mặt cậu bé cũng tươi tỉnh hớn hở hẳn lên. Cậu đến bên hiên chánh điện, lòng thầm khấn nguyện….

…. Sau khi dùng điểm tâm, Sư trụ trì cho gọi cậu bé vào hỏi:

_ Con tên là gì? Vì sao lại trốn nhà đi tu? Hãy nói rõ về gia thế cùng những suy nghĩ của con cho Ôn nghe thử xem.

_ Bạch Ôn…Con tên Hoà, học lớp sáu trường làng. Con vẫn thường theo các O chú dưới quê đi chùa và sinh hoạt cùng gia đình Phật Tử. Con muốn được như mấy chú điệu ở chùa tụng kinh làm công quả và tu học cho đến ngày giải thoát. Con cũng mong ước sau này khi lớn lên được như quý ôn quý thầy làm những điều lợi ích cho chúng sinh…

Sư cười lớn, khẻ gật đầu nói:_ Khá lắm, Con còn nhỏ mà đã có tư tưởng như vậy. Hãy giữ mãi tâm niệm ban đầu này. Còn bây giờ…theo phép nhà chùa, thì người xuất gia phải có sự đồng ý của gia đình. Vậy con cứ tạm thời ở đây, vài hôm nữa quý thầy sẽ tìm liên lạc cho cha mẹ con biết. Được hay không còn tuỳ duyên cùng lòng kiên định của con. Thôi con ra ngoài để quý thầy chỉ dạy thêm. Àø… để Ôn đặt cho con pháp danh là Thuận Nguyên, mong là việc xuất gia tu học của con rồi đây sẽ được thuận buồm nguyên vẹn.

Chú tiểu Thuận Nguyên được xuống tóc để chỏm sau đó không lâu. Chẳng phải êm xuôi gì nhưng vì lòng chân thành mến đạo và kiên quyết của chú bé nên cuối cùng cha mẹ đành chấp thuận gởi con cho sư ông trụ trì. Lúc ấy chùa có mở lớp gia giáo dạy kinh cho chúng điệu nơi bổn tự cùng những chùa lân cận đến xin học. Thuận Nguyên cũng như mấy chú ở chùa vừa được đi học văn hoá ở ngoài vừa học đạo tại chùa. Chú nhỏ tuổi và hiền lành hơn cả, nhưng học hạnh thì cần mẫn thông minh lại khiếm tốn hài hoà, nên sư phụ, quý sư huynh rất yêu mến. Hết bậc trung học, thì chú cũng có chút vốn liếng nội điển cơ bản. Sau đó Sư Phụ cho phép chú cùng nhiều huynh đệ đồng trang lứa thi vào Viện Đại học phật Pháp ở Sài Gòn. Con đường xuôi nam tu học của chú xem ra khá là thuận duyên thẳng tiến.

Tuổi trẻ chứa chan niềm nhiệt huyết, tâm chí cầu đạo toả sáng, học hạnh kiêm ưu, trí năng càng hiển lộ. Thuận Nguyên lại nung nấu biết bao tâm nguyện. Muốn xây dựng một đội ngũ Tăng sinh mang tinh thần nhập thế. Muốn đưa con thuyền đạo pháp vươn đến tận cùng mọi đời sống nhân sinh xã hội. Muốn cải tổ hệ thống giáo dục Tăng Ni v..v. Nhưng Phật Giáo gặp thời pháp nạn, chịu sự kỳ thị và đang không ngừng đấu tranh đổ nhiều xương máu. Với sự năng nổ của vị tăng vừa rời ghế Phật học Viện, nhưng tiềm lực bên trong chưa đủ, trợ lực bên ngoài không mạnh, một định hướng tốt cũng khó được hình thành lúc này.. Ngày xưa Tổ Đạt Ma gặp thời tao loạn mà quyết chí đem đạo pháp truyền sang đông độ. Tổ Huệ Năng thì thọ nhận pháp ấn đi về phương nam hành hoá. Thầy đâu dám ví mình có đạo lực uyên thâm và chí hướng cao xa như chư tổ, chỉ ước nguyện một đời xả thân vì đạo vì đời, mong đem ánh sáng chơn lý đạo mầu soi tỏ khắp cùng nhân thế.

Ngày thầy trở về chùa đảnh lễ sư phụ để ra đi, Người vẫn ngồi lần chuổi niệm Phật trên bộ phản giữa nhà tổ, mắt hướng về mấy chậu cúc vạn thọ nơi bục cửa. Mùa xuân còn bỏ ngỏ mà lòng người đã sẵn sàng ra đi. Thầy nhớ mãi ánh mắt từ hoà thương cảm khi Sư Phụ nhìn mình như nhìn chú bé ngày đầu tiên tay ôm bọc áo quần đến chùa xin ở lại tu. Những lời nói của Sư phụ ngày ấy, thầy đã mang theo trên mọi bước đường du phương hoằng hóa.

_ “Khi Sư Phụ nhìn vào đôi mắt thông minh cương nghị của chú bé mới vào chùa đã đoán được phần nào. Rồi đây chú sẽ làm nhiều lợi đạo ích đời. Rồi đây chú sẽ mang chí nguyện vươn xa khắp mọi chân trời. Nay chính là lúc con phải ra đi rồi. Thầy chỉ có mấy lời, là mong con luôn giữ vững tâm nguyện xuất gia ban đầu. Đạo tâm vững, chí nguyện sâu thì dù ở đâu cũng có thể hoằng pháp lợi sanh. Đi xa, cũng là dịp tốt để con có tầm nhìn rộng thoáng và thiết thực, từ đó sẽ có định hướng đúng đắn, sẽ kiến tạo nên một sự nghiệp lớn, phù hợp với màu áo và tâm hạnh của người xuất gia…”

Chuyến ra đi ngày ấy, chỉ dự kiến một thời gian. Ai ngờ … phải mất gần non nửa thế kỷ Thầy mới có dịp trở về thăm lại quê hương. Vị Bổn Sư khả kính đã viên tịch. Ngôi chùa Tổ cổ kín theo thời gian vẫn yên vị trên ngọn đồi thông lộng gió. Các vị sư huynh sư đệ người còn người mất, ai đến ai đi chắc cũng thấu hiểu sự trở về mang đầy ý hướng tốt đẹp của Thầy. Một đời vân du trong cõi người ta, những nơi Thầy đi qua đã trở thành niềm ký ức khó quên cho lòng người khi đến. Nhiều nơi đã trở thành trung tâm Phật giáo quy tụ nhiều tín đồ học Phật đầy đủ mọi màu da chủng tộc. Nhưng điều thầy đạt được hơn cả là không đánh mất niềm tin cùng sự kỳ vọng của thầy tổ huynh đệ, của bao thế hệ người đã và đang tận lực hy sinh cho đạo pháp và dân tộc này.

Hơn nửa đời người làm thân lữ thứ, Thầy luôn tự ví mình như cảnh chimViệt cành Nam. Con người ta…ai chẳng một quê hương để nhớ tưởng, để quay về khi xế chiều lặn bóng. Quê hương Thầy là đây; là nơi trở về trong tâm thức có ánh đạo từ quang soi sáng. Quê Hương này từ lâu đã sống trong cảnh thanh bình yên ấm. Đạo pháp vẫn mãi trường tồn trong lòng dân tộc. Bao ước nguyện một thời của vị Tăng sinh trẻ nay gần như đã được hình thành. Ngày trở về… Thầy những mong góp chút hạnh nguyện cuối đời cho sự phát triển đạo pháp nơi quê nhà. Cánh buồm xưa đã xuôi về bến cũ.

Thầy bước lần ra sân…. cùng đến chấp tác với chúng điệu, góp thêm nắm đất vun cho mấy chậu hoa đang kết nhuỵ. Những vẻ mặt hồn nhiên tươi tắn trong bộ đồ bạc thếch lấm tấm mồ hôi bùn đất. Có ai đó vừa nhìn thấy hình ảnh ngày nào của chú tiểu Thuận Nguyên. Bên thềm đá sỏi vẫn còn in rõ dấu chân nai một thời thơ dại. Vài cánh chim Hạc vừa bay qua nền trời. Mùa xuân sắp về rồi. Chim Hạc ắt hẳn cũng muốn quay về… với nơi chốn bình yên muôn thuở.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5691)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4625)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4233)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37109)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5304)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8689)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4396)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13266)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 20975)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6581)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]