Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu chuyện đôi giầy và xâu chuỗi.

10/04/201312:10(Xem: 5827)
Câu chuyện đôi giầy và xâu chuỗi.

xau chuoi

CÂU CHUYỆN
ĐÔI GIÀY VÀ XÂU CHUỖI



Tôi mang loại giày vải màu đen đó đã ba mươi năm. Còn xâu chuỗi màu đỏ luôn ở bên mình (không phải là loại mã não thứ thiệt đâu) cũng tròm trèm tuổi thọ như thế. Cho đến nay, cuối năm 2007 rồi, tôi vẫn chưa có ý định đổi giày hay thay chuỗi. Tôi có lập dị lắm không, xin em đừng cật vấn. Em cũng đừng vội nghĩ rằng mấy thứ tùy thân này của tôi cũ kỹ lắm rồi. Trái lại là khác. Mỗi lần cầm xâu chuỗi trên tay hay xỏ chân vào giày, là những suy nghĩ mới mẻ đến bên tôi.


Chúng ta hãy nói chuyện đôi giày trước. Đôi giày, người bạn tốt của tôi, từ bấy đến nay, có thấy phàn nàn hay than thở gì đâu? Mà thật ra, nhiều lúc, chúng ta cũng đáng trách lắm. Đôi giày theo ta trọn ngày, lên xuống bao đoạn đường, đến nay đã bạc màu, vẹt gót, vậy mà, khi về đến nhà, quen lệ, tháo vội giày ra, có khi vất đại vào một góc nhà, chẳng có một lời cám ơn "thank you" nào cho hợp với thái độ nhã nhặn thường lệ của ta! Riêng tôi, cũng may, từ khi thực tập thường xuyên chánh niệm, mỗi khi mang giày vào hay tháo giày ra, tôi đều nghĩ đến người bạn tốt và trung thành với mình, không quên cảm ơn và đặt giày ngay ngắn trên kệ.


Hôm trước đây, giở lại chồng hình ảnh cũ, cầm lên tấm hình "shoe parking lot" - khu để giày dép - chụp tại Trung tâm Phật giáo Hayward năm nào, rồi nhìn xuống đôi giày cũ trung thành của mình và những bài học gợi ra từ món tùy thân đơn giản này, điều ấy khiến tôi phải ngồi xuống bàn, cầm bút.


Từ năm 1986, chúng tôi đã bắt đầu thực tập Chánh Niệm với đối tượng đi theo bên mình là đôi giày hay dép. Nên, sau đó chúng tôi khởi sự việc hướng dẫn thực tập điều Chánh Niệm này với các em thiếu nhi đến Trung Tâm Phật giáo để sinh hoạt. Chúng tôi yêu cầu các em để giày dép thật ngay ngắn trong những ô vuông kẻ sẵn, trước khi bước vào "chánh điện".


Từ đấy, trên thềm Trung Tâm là hình ảnh biểu tượng thật đẹp, phối hợp giữa biểu hiện sự ngăn nắp, trật tự của tập thể và, ý nghĩa hơn, thể hiện ý thức chánh niệm trong đời sống cá nhân. Tinh thần chánh niệm trên được duy trì cho đến nay khi chuyển tiếp sang chùa Phổ Từ mà nơi thực tập là những hàng kệ nhiều hơn và mỹ quan hơn.
Thực tập và thực hành chánh niệm đối với bất cứ đối tượng nào, không phải là ý thức hay hành động giai đoạn, của một lúc, trong một buổi. Trong chánh niệm, sau mỗi lần sử dụng, tôi biết tôi sẽ MỜI đôi giày của mình "nghỉ ngơi" ở đâu. Tôi cởi giày ra, đặt nhẹ nhàng lên kệ, và nhỏ nhẹ cảm ơn giày. Ý thức và hành động như trên nghĩa là mình đang thực tập hạnh khiêm cung của bồ tát Thường Bất Khinh. Nghĩa là bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn đến sự trợ giúp, cưu mang tự muôn người, muôn vật, muôn loài. Suy nghĩ và hành động như thế, giáo lý độ sanh của nhà Phật không còn tồn tại trong những trang kinh trừu tượng mà thể nhập vào cuộc sống, hướng dẫn con người đạt được cuộc sống an lạc, có ý nghĩa.


Việc biết ơn đôi giày mà tôi vừa trình bày, em thấy có hợp lý lẽ không? Không khác gì trường hợp khát nước mà có được ly nước ngọt trên tay, kẻ phải đi chân trần giữa trời nắng chang chang trên đường nhựa nóng bỏng, sẽ thấy sung sướng chừng nào nếu có được đôi giày dưới chân. Cũng như, khi đi dự dạ tiệc, ngoài bộ áo sang trọng phải có thêm đôi giày vừa ý thì hạnh phúc đến với con người khi đó mới trọn vẹn. Trong thí dụ đơn giản như trên, chính đôi giày, là một trong những cái đem đến an vui trong cuộc sống hàng ngày cho ta. Giày có đáng được nhận một nụ cười, một lời thân tình nơi ta không chứ? Thank you, shoes!


Giờ xin nói đến chuyện xâu chuỗi. Đây là chuyện liên quan đến việc tu hành, đắc đạo, lên niết bàn chứ không phải chuyện chơi đâu nghe! Hù em một chút thôi, chứ chuỗi nào, làm bằng gì, có quí giá đến đâu thì cũng chỉ là chút PHƯƠNG TIỆN thôi tuy không thể thiếu. Vì không có phương tiện thì làm sao đạt được cứu cánh. Với xâu chuỗi màu đỏ đó, tôi làm bạn với chánh niệm, với giây phút hiện tại. Khi cầm chuỗi trên tay, tôi có ý thức là mình đang có mặt với giáo pháp nhà Phật. Nói rõ hơn, đó là hình ảnh bồ tát Quán Thế Âm với hạnh nguyện từ bi cứu khổ. Tôi niệm từng câu một, rõ ràng, và giữ tâm niệm Thương Yêu đối với vạn vật, với tha nhân trong đó có em nữa. Điều lợi ích rất lớn cho tôi là tôi đã biết cách nuôi dưỡng tâm niệm an lành cho thân và tâm của mình. Bớt đi những chuyện buồn phiền, lo lắng vô ích. Nhờ đó, mà không bị bệnh mất ngủ, không có đường cao, máu cao gì hết (có chứng cớ đàng hoàng đó nhe!)


Có một điều chẳng ai ngờ được đó là chuyện "giả đò", "thực mà hư" của tôi trong hoàn cảnh bất đắc dĩ. Ai cũng tưởng là khi cầm xâu chuỗi, người ta gọi là lần tràng, là lúc tôi nghiêm trang, để hết tâm vào câu chú nguyện. Không phải một trăm phần trăm đâu. Trong nhiều trường hợp, xâu chuỗi trở thành "cứu tinh" của tôi, giúp tôi thoát ra khỏi cảnh khó xử. Đó là những khi mình không muốn tiếp tục phải nghe điều mình không muốn, hay không muốn tiếp tục câu chuyện với người trước mặt. Trong hoàn cảnh chẳng đặng đừng như thế, thì chỉ còn cách cầm xâu chuỗi trên tay, lần từng hạt, vì đó là Dấu Hiệu của việc khởi đầu giây phút Linh Thiêng Tối Thượng của người tu hành mà người đối diện phải nhận biết và tôn trọng. Như vậy là tôi thoát nạn, khỏi phải tiếp tục nghe hay buộc phải nói gì nữa. Cứ ĐƯỢC ngồi yên là hạnh phúc rồi. Đó là một "chiêu thức" tạm gọi là phòng thân của tôi khi cần có sự yên tĩnh. Em có thấy những lợi ích thông thường lẫn kỳ diệu của xâu chuỗi trong tay chưa?


Tóm lại, tu tập là áp dụng điều Phật dạy vào trong những việc làm thực tiễn trong đời sống hàng ngày của mình. Cứ thực tập đều đặn, liên tục chúng ta sẽ cảm nhận được sự nhiệm mầu, oai lực vô song của Phật pháp. Hãy tập nhìn muôn người, muôn loài, muôn vật dù có hay không tri giác, hiện diện quanh ta, với sự hiểu biết và tâm niệm biết ơn của người con Phật. Đó là thí điểm và khởi điểm để tình thương và bao dung được khai triển, đem lại an lạc trong tâm mỗi người, phúc lợi cho tập thể.


Như thế, phải chăng hòa bình trên trần thế được gầy dựng từ sự thực hành trong chánh niệm những việc thực tiễn trong đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân chúng ta.

THÍCH TỪ-LỰC
E-mail: [email protected]

----o0o---

Trình bày: Vĩnh Thái

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7589)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8490)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7269)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6170)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7070)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5332)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4009)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8678)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23151)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4679)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]