Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kỳ tích đi tìm vị Rinpoche tái sinh

28/02/201722:13(Xem: 12874)
Kỳ tích đi tìm vị Rinpoche tái sinh


Geshe Lama Konchog Rinpoche

Kỳ tích đi tìm vị Rinpoche tái sinh

Đó là câu chuyện về Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche qua đời năm 2001. Có nhiều chuyện kỳ lạ trở thành mầu nhiệm sau khi Ngài ra đi.
Ngay khi hỏa táng Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche có mưa phùn nhẹ, xuất hiện 5 cầu vồng ở 5 hướng: Một cầu vồng xuất hiện trên tháp Kopan. Một cầu vồng xuất hiện trên ngọn lửa trên tháp hỏa táng. Một cầu vồng bao quanh bảo tháp hỏa táng. Một cầu vồng xuất hiện từ tháp hỏa táng trong thung lũng Kathmandu. Và một cầu vồng xuất hiện ở hướng Bắc-Đông. Khoảng một giờ sau các cầu vồng mới tan dần.
Truyền thống Phật giáo Mật tông, khi hỏa táng Thánh Tăng cao cấp, thường phải tìm dấu hiệu tái sinh hay không. Các nhà sư đặt dưới giàn hỏa táng một ít cát trong một cái hộp thiếc. Sau khi hỏa táng, mở nắp hộp và kiểm tra các dấu hiệu. Nếu có một dấu chân, đó là một dấu hiệu cho thấy vị Thánh Tăng sẽ tái sinh. Nếu các dấu chân nhỏ, nghĩa là sẽ có hóa thân từ một đứa trẻ. Nếu các dấu chân rất lớn, sẽ nhận ra sự tái sinh khi vị đó lớn lên. Để kiểm tra các hướng mà hóa thân sẽ đến, phải xem theo hướng gót chân phải đối trước mặt. Đó là hướng Rinpoche sẽ tái sinh.
Sau khi hỏa táng, các vị Lama đã gom được rất nhiều viên xá lợi, có màu đỏ và màu trắng. Khi mở nắp hộp sắt dưới tro lên thì xuất hiện những dấu hiệu như hoa văn, đó là một dấu chân nhỏ xoay về hướng đông nam có thung lũng Tsum, là nơi mà xửa xưa Đức Liên Hoa Sinh đã tạo dựng. Đó là những dấu hiệu rất rõ ràng cho hướng tìm kiếm sự tái sinh.
Một vị Tăng trẻ có tên là Tenzin Zopa, từ năm lên 7 tuổi đã là thị giả của Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche cho đến khi Ngài viên tịch. Tenzin Zopa đã từng nằm mơ có một cậu bé mặt tròn, mũm mĩm thoát ra từ xác của Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche và gọi to nhiều lần “Tenzin Zopa”. Vị sư trẻ đã kể lại cho các vị Yogi nghe, sau đó Tenzin Zopa được các vị Lạt Ma cử đi tìm vị tái sinh của Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche. Đó năm 2004, sau 4 năm Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche thị tịch.
Theo dấu hiệu phát hiện sau khi hỏa táng vết chân nhỏ chỉ về hướng thung lũng Tsum. Nhà sư trẻ Tenzin Zopa đã đi bộ qua nhiều xóm làng, gặp gỡ nhiều đứa trẻ từ 1 tuổi rưỡi đến 2 tuổi đều không có chút gì giống Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche cả về hình tướng đến các ý thích trong hàng ngày.
 
blank

Sư Tenzin Zopa trong cuộc hành trình giữa núi non trùng điệp
 Trước khi lên đường, Tenzin Zopa mang theo vài Pháp khí của Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche đương thời vẫn dùng, trong đó có chuỗi hạt màu trắng. Qua bao triền núi và đồi lởm chởm đá, cuối cùng Tenzin Zopa đến một căn nhà của vợ chồng Apey. Và, xuất hiện trước mặt nhà sư trẻ một đứa bé khoảng 2 tuổi, mũm mĩm, tai to, cặp mắt sáng, rất tự nhiên. (Đó là dấu hiệu đầu tiên) Tên của em bé là Tenzin Nyudrup. Sư Tenzin Zopa đeo trên cổ tràng hạt của Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche, khi cậu bé ngồi trên lòng sư Tenzin Zopa  liền gỡ ngay chuỗi hạt khỏi cổ nhà sư và cầm chặt lấy, lát sau sư Tenzin Zopa tưởng bé Tenzin Nyurup đã quên chuỗi hạt ở cổ liền nhẹ nhàng lấy lại xâu chuỗi nhưng cậu bé dứt khoát giữ khư khư và giơ xâu chuỗi xa tầm tay với của sư Tenzin Zopa. (Đó là dấu hiệu thứ hai). Bé Tenzin Nyudrup còn thích tưới cây giống như Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche khi còn tại thế thường làm. (Dấu hiệu thứ ba). Vì sư Tenzin Zopa từng là thị giả kiếp trước của chú bé nên nhà sư và em bé nhanh chóng thân thiện với nhau như vậy, (là dấu hiệu thư tư).
 
blank
Cả hai nhanh chóng thân thiện với nhau
 
Trezin Zopa đã ở lại nhà của gia đình bé Tenzin Nyudrup ba ngày để có thể nhìn nhận rõ ràng thêm vài điều về em bé.
Người cô ruột của bé Tenzin Nyudrup kể rằng: khi cậu bé hai tuổi, nhiều lần đòi đi đến các hang động nơi thành tựu giả Geshe Lama Konchog đã từng lui tới và đòi đưa cậu bé đến các hang động đó và nhiều lần nói to “Gompa, Gompa”. Mỗi lần lên hang động là cậu bé đòi ở lại luôn.
Cách đó hơn 20 năm, Ngài Geshe Lama Konchog đã cất dấu một hộp kinh sách trong hang. Mỗi lần bé Tenzin Nyudrup đi ngang vị trí có hộp kinh sách là thường rờ tay lên đó như muốn tìm kiếm. Sau này người cô của bé Tenzin Nyudrup mới biết đó là nơi Ngài Geshe Lama Konchog đã dấu hộp kinh. Nhiều người trong làng còn kể về cậu bé có nhiều biểu hiện rất đặc biệt khác với những đứa trẻ cùng tuổi.
Sư Tenzin Zopa trở về Katmandu tường trình lại tất cả những gì phát hiện về bé Tenzin Nyudrup. Các vị Yogi rất mừng, theo đúng nghi thức, các vị Thánh Tăng vẫn phải thử bé Tenzin Nyudrup lần cuối cùng, là lần quan trọng nhất.
Tenzin Zopa quay trở lại nhà vợ chồng Apey để cho ba mẹ cậu bé biết về thân phận của Tenzin Nyurup . Sau đó Tenzin Nyudrup được đưa về Tu viện để có thể nhận ra những Pháp khí và những vật dụng mà kiếp trước của mình đã từng dùng hay không.
 
blank
Cha của chú bé cùng trên đường về Tu viện ở Katmandu
 
Trong phòng là ba vị Rinpoche, ba và mẹ đứa trẻ cùng sư Tenzin Zopa. Ở giữa là một cái bàn trải tấm khăn mầu đỏ trầm, phía trên có ba cái chày Kim Cang để cạnh ba cái chuông, kế đó là ba xâu chuỗi ba màu là: nâu, vàng, trắng. Các vị Thánh Tăng chỉ vào chày Kim Cang hỏi “Cái nào trước đây thường dùng?”, bé Tenzin Nyudrup đã cầm đúng cái chày Kim Cang của Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche. Rồi đến chuông, chuỗi hạt cũng được bé  chọn chính xác đến kinh ngạc.
Bé Tenzin Nyudrup đã được Ngài Datlai Latma 14 làm lễ công nhận là vị hóa thân của Ngài Geshe Lama Konchog và thụ phong cho bé Tenzin Nyudrup được đặt tên Phật là Tulku Tenzin Phuntsok Rinpoche.
 
blank
Datlai Latma 14 cắt tóc bé Tenzin Nyudrup để quy y 
 
blank
Chuẩn bị phong Thánh
 
blank
Bé Tenzin Nyudrup  sau khi được thụ phong là Thánh
 
Trong buổi lễ phong Thánh, Tulku Tenzin Phuntsok Rinpoche (2 tuổi) ngồi trên Pháp tòa Kim Cang oai vệ. Hàng ngàn Phật tử nước ngoài lên dâng khăn Khata, Tulku Tenzin Phuntsok Rinpoche làm đúng nghi thức quàng khăn qua đầu từng người và đặt tay lên đầu ban phước. Thế nhưng khi có một nữ Phật tử cúng dường một cái máy bay đồ chơi khiến cho Tulku Tenzin Phuntsok Rinpoche quên luôn Phật tử mà đưa hai tay đón nhận, nhưng đã được thị giả nhanh chóng giấu đi khiến cho hai thị giả đứng bên không khỏi buồn cười trước nét hồn nhiên thật là dễ thương đó. Rồi Tulku Tenzin Phuntsok Rinpoche tiếp tục quay lại ban phước cho mọi người.
 
blank
Phật tử cúng dường tượng Phật Thích Ca
 
Sau ngày thụ phong giáo phẩm, Tulku Tenzin Phuntsok Rinpoche được thị giả Tenzin Zopa bế đến trước bàn cao có bày hai khung ảnh của Ngài Geshe Lama Konchog thì đều được nghe bé nói “Hình đó của tôi mà”… Có lần Tulku Tenzin Phuntsok ngồi một mình với bức tượng Đức Thích Ca trên tay – do một Phật tử cúng dường, Tulku Tenzin Phuntsok ngắm rất lâu như tìm gì đó bí ẩn trong bức tượng rồi giơ lên cao, cụng đầu vào tượng không muốn rời xa.
 
blank
Ngắm bức tượng Phật rất lâu
 
blank
Đặt tay lên đầu Phật tử ban phước
 
blank
Và yêu thương động vật
 
blank
Hành trình đi tìm Sư phụ tái thế
 
blank

Tulku Tenzin Phuntsok Rinpoche và thị giả Tenzin Zopa
 Đức Phật đã dạy “Chúng ta phải hồi sinh để tiếp tục sự sống”. Do vậy, trên 700 năm qua, Phật giáo Mật tông vẫn có bổn phận làm theo truyền thống thực hành nghi lễ đi tìm Rinpoche tái sinh. Những vị Thánh Tăng đắc đạo thành Phật có thể chọn thân xác kiếp sau cho mình tái sinh để tiếp tục dẫn dắt các đệ tử của mình tu tập theo Phật, làm phát triển Phật Pháp và lợi ích cho tất cả chúng sinh. Và để xác nhận một vị Rinpoche tái sinh không hề đơn giản.
Đài BBC Anh Quốc chứng kiến từ những phát hiện đặc biệt các dấu hiệu tái sinh trong lễ hỏa táng Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche của truyền thống của Tây Tạng, những nhà làm phim của Đài BBC đã quyết định theo chân nhà sư trẻ Tenzin Zopa suốt cuộc hành trình hướng tới thung lũng Tsum như đã ứng báo để tìm đứa trẻ tái sinh. Sau khi hoàn thành, bộ phim video có tên là "Đứa bé tái sinh người Tây Tạng". Bộ phim đã đuợc tất cả những Chư Tăng - Ni - Phật tử Kim Cang Thừa trên thế giới rất khâm phục và ngưỡng mộ công đức tìm kiếm đứa bé tái sinh của sư Tenzin Zopa và nghệ thuật làm phim của Đài BBC, tất cả những gì thực tế về người thật, việc thật thể hiện từng chi tiết trong phim cho thấy đó quả là một kỳ tích.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 20437)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3940)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8641)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 8265)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9747)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4836)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2985)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4139)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3802)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 3843)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]