Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hư ảo một màu hoa

10/04/201311:53(Xem: 4248)
Hư ảo một màu hoa

hoa lan_3

Hư ảo một màu hoa

Lam Khê

- Nào nhanh lên mấy đứa. Chúng ta phải đi sớm cho kịp khóa lễ.

Hiền vừa dắt xe ra sân, vừa không ngừng hối thúc các em.

Hải chạy lại bên chị:- Cái giỏ đồ tang chị lấy ra chưa?

-Rồi, chị để đằng trước đầu xe kìa…

Cô quay nhìn vào nhà hỏi:_Bé Hằng đâu rồi?

Bé Hằng từ từ bước ra. Con bé đang cầm trên tay một xâu hoa hồng tươi. Nó bỏ xâu hoa vào giỏ rồi cất tiếng phụng phịu hỏi chị:- Chị Hai! hôm nay là ngày lễ Vu Lan, vậy em có được cài hoa hồng không?

Thằng Hải nhanh nhẩu:- Có chứ! Nhưng năm nay mình phải cài hoa hồng trắng.

Hoa hồng trắng! Hiền chợt nghe lòng mình chùng xuống. Năm trước, cũng vào ngày nầy, ba chị em Hiền theo mẹ đến chùa làm lễ. Rồi mỗi đứa được cái một bông hoa hồng xinh xắn lên ngực áo. Vậy mà mùa Vu Lan năm nay lại là tuần thất thứ bảy của mẹ.

Bé Hằng vẫn ngây thơ nói:_Em không thích cài hoa hồng trắng đâu. Em sẽ xin Sư Cô một bông hoa màu đỏ.

Mí mắt Hiền bắt đầu cay cay. Trước đây Hiền không thể nào hình dung nổi khi mất mẹ mình sẽ như thế nào! Vậy mà bây giờ cô không có quyền mềm yếu. Cả đến quyền được khóc cũng không thể. Trong vai trò của người chị cả, Hiền còn kiêm luôn chức năng của người mẹ trẻ. Hơn tháng qua, Hiền luôn kề cận, vỗ về an ủi và chăm sóc các em. Cô đã trở thành chỗ dựa duy nhất của chúng, khi mà bố còn ở xa, và mẹ đang còn phảng phất đâu có giữa chốn trời mây thăm thẳm….

…. Khóa lễ tụng kinh vừa bắt đầu. Hiền đưa hai em đi vòng xuống nhà Tổ để lên chánh điện.

Đi ngang qua bàn vong, nơi có đặt bức ảnh lớn của mẹ. Cô dừng lại ít phút, lặng lẽ ngắm nhìn gương mặt dịu hiền trong đó. Bức ảnh nầy chụp không bao lâu thì mẹ mất. Không ngờ đó là bức ảnh cuối cùng. Nụ cười trong ảnh cũng là nụ cười cuối cùng còn in đậm trong tâm trí Hiền.

Bé Hằng cầm xâu hoa tươi bước lại choàng quanh khung ảnh. Chiều hôm qua nó đã đòi Hiền mua cho bằng được đóa hoa màu hồng nhung. Suốt đêm nó ngồi xâu kết lại và cũng muốn tự tay mình dâng lên cho mẹ. Con bé thích những bông hoa màu hồng mà những năm trước còn mẹ nó vẫn được cài. Có ai lại không thích hoa hồng? Màu hoa tôn vinh cho cái đẹp. Màu hoa biểu trưng cho tình mẹ thiêng liêng cao qúy. Màu hoa ấy giờ đây đối với chị em Hiền đã trở nên nhạt nhoà vô vị.

“ Mẹ đi để lại màu hoa tang thương cho con. Để lại nơi trần gian bao mái đầu xanh bơ vơ lạc lỏng…”

Ngày trước Hiền cũng bao lần bày tỏ chút niềm thương xót đến với những ai mất mẹ. Lòng thương xót ấy gần như đồng cảm với sự lo lắng. Nhưng chỉ thoáng qua thôi. Làm sao Hiền có thể nghĩ khác được khi mà mẹ vẫn còn đó, vẫn đầy ấp những lời yêu thương trìu mến. Để rồi khi tất cả đã lùi xa vào ký ức. Hiền tưởng chừng mình đang rơi lạc trong một giấc mơ chưa từng có thật trong cõi đời này.

Tiếng tụng kinh trầm ấm vang lên đã đưa Hiền trở về với thực tại. Đã nhiều tuần lễ trôi qua, mỗi đêm Hiền đều đưa các em đến chùa tụng kinh cầu siêu cho mẹ. Từng đêm … Hiền luôn giữ cho lòng mình thật yên tĩnh trong mỗi lời kinh ý kệ. Sư cô đã chẳng dạy là : “ khi đọc kinh với lòng chí thành tha thiết sẽ khiến cho người chết được siêu độ, mà người sống cũng được yên vui an ổn”. Từng đêm Hiền luôn nghĩ đến mẹ bằng tất cả niềm nhớ thương mong ước. Dù có xa hẳn cuộc đời thì mẹ vẫn là mẹ. Vẫn nguyên một hình hài trong tâm tưởng Hiền, vẫn dạt dào trái tim của người mẹ hiền muôn thuở. Hiền đã nhìn thấy mẹ qua từng tiếng chuông vọng lên giữa thinh không. Tiếng chuông trong đêm vắng cùng lời kinh nguyện cầu sẽ mở toang hết mọi xiềng xích nơi âm cảnh. Hiền nghĩ vậy vì cô đã được nghe sư cô giảng: “ Trong khoảng thời gian 49 ngày, người chết vẫn còn chập chờn giữa hai cảnh âm dương, tội phước chưa rõ ràng. Nếu được nghe kinh… được người thân nhất tâm trợ duyên hồi hướng, thì sau tuần thất thứ bảy, vong hồn người quá cố sẽ hướng về nẻo thiện mà được giải thoát.”

Thế nhưng hôm nay, Hiền nghe trong mỗi lời kinh dường như mang một âm hưởng khác. Vẫn là những câu “ sắc tức thị không không tức thị sắc…” mà sao cứ lắng đọng xa xôi dịu vợi. Vẫn mấy lời hồi hướng “âm siêu dương thạnh” mà nghe ray rứt đến tê lòng. Phải chăng vì là ngày lễ Vu Lan. Ngày xá tội vong nhân. Và lại là ngày chung thất của mẹ. Ngày lễ Vu Lan đầu tiên mất mẹ, màu hoa tuổi thơ bỗng nhuộm đầy sắc trắng tang thương.

Hiền giật thót người khi có ai đó vừa đến bên cô, nhẹ nhàng cài một cánh hoa màu trắng lên góc áo. Màu hoa trắng dường như cũng vô cảm với lòng người tiếp nhận. Trước kia Hiền vốn thích màu trắng tinh nguyên như chiếc áo dài cô mặc đến trường.“ Cuộc đời vốn là vô thường. Con người chung quy chỉ là một vật thể tan hợp, hợp tan biến đổi từ thân này sang thân khác, kiếp này qua kiếp kia. Thế nên tất cả mọi sự việc, mọi cảnh trí màu sắc mà ta thấy đó cũng chỉ là những trò hư ảo không thật”. Lời giảng mang tính triết lý ấy, trong một lần theo mẹ đến chùa nghe pháp hầu như không lưu lại trong đầu Hiền một khái niệm gì. Hôm nay chợt hiện lên từng câu từng chữ rõ ràng. Ôi! sắc màu là hư ảo, muôn sự trên cõi đời này đều là giả huyển … chỉ riêng có mẹ đã chết thật rồi. Tiếng khóc và nổi côi cút của ba chị em cũng là một hiện thực. Cả khung cảnh bàng bạc tiếng mõ và lời kinh tụng thì cũng đang hiện hữu trong tầm mắt và suy tưởng của Hiền.

Tiếng Bé Hằng vang lên bên tai Hiền:_ Em không thích hoa hồng trắng, anh Hải xin cho em một bông màu đỏ đi.

Hải nhỏ nhẹ dỗ em:_ Mình phải cài hoa trắng. Sư cô bảo người mất mẹ thì cài hoa trắng em không nghe sao?

Bé Hằng lại vùng vằng, lại khóc. Tiếng khóc rấm rứt vòi vĩnh như mọi lần nó không vừa ý. Tiếng khóc đã xóa tan chút yên tịnh mà Hiền cố giữ trong lòng. Tiếng khóc vô tư của đứa bé tám tuổi và nỗi trầm tư của cô gái đôi mươi có một khoảng cách; Nhưng nỗi buồn mất mẹ thì vẫn như nhau. Có khác chăng là Hiền đang muốn hoà nhập lòng mình với khung cảnh yên bình này để cô vững niềm tin, đủ nghị lực mà làm tròn sứ mạng mẹ đã giao lại. Có như thế sự ra đi của mẹ mới thanh thản, Bố mới yên lòng công tác tận miền xa…

Hiền kéo em ra phía bên ngoài và nghiêm sắc mặt lại với nó. Con bé vẫn thút thít. Nó khóc và gọi mẹ như mọi khi. Tiếng khóc làm cho Hiền se thắt. Khi mẹ còn, những đòi hỏi dù vô lý của Hằng vẫn được đáp ứng, vậy thì lẽ nào lại hẹp hòi một cành hoa hồng để an ủi tâm hồn trẻ thơ. Màu hoa chỉ là những biểu tượng nhất thời, còn tình mẹ thì mãi mãi bất diệt. Mãi mãi trong niềm thương nhớ của con trẻ.

Hải xin được một cánh hoa hồng đỏ đem lại cho bé Hằng. Trước kia nó thường la mắng và bực dọc mỗi khi con bé hờn khóc. Từ ngày mẹ mất nó trở nên biết chìu chuộng và yêu thương em. Là con trai Hải tỏ ra cứng rắn hơn. Nhiều lần Hiền nhìn thấy trong đáy mắt Hải đỏ hoe. Bây giờ nó cũng đưa tay lên dụi mắt, có lẽ vì khói nhang nhiều quá. Hải thì thầm bên chị với giọng xúc động:

_Chị Hai! hôm nay là ngày xá tội vong nhân, như vậy mẹ mình cũng nhờ nghe kinh mà được siêu thoát hả chị?

Hiền gật đầu khẻ đáp :- Ừ! Mẹ chắc chắn sẽ đi về một nơi yên lành. Bởi chúng ta đã thành tâm cầu nguyện cho mẹ. Vì mẹ là một người mẹ hiền, một trái tim nhân ái đối với tất cả mọi người…

Hiền nhắm nghiền hai hai mắt lại. Cô cũng sợ làn khói mong manh đang toả ra làm cho mắt mình nhoà lệ. Trong khoảng khắc Hiền chợt thấy hình dáng của mẹ hiền rõ dần ra. Những cánh hoa hồng cũng chập chờn bay lượn trong mắt Hiền. Màu hoa trắng đỏ đang hòa lẫn lại với nhau chợt hiện ra, sau đó đã nhanh chóng tan biến vào hư không. Cả khuôn mặt dịu dàng của mẹ cũng dần dần biến mất. Mẹ đã đi rồi. Mẹ đi về một cõi xa xăm với nụ cười mãn nguyện. Chắc mẹ cũng thấu rõ tấm lòng của những đứa con thơ.

Hiền mở mắt ra khi tiếng tụng kinh vừa dứt và khói hương cũng bớt mịt mù. Bé Hằng thôi không khóc nữa. Cánh hoa hồng trên tay nó cũng chẳng còn. Hằng đã cài hoa cho một em bé vừa được mẹ dẫn đến. Hiền thấy mặt em đã tươi tĩnh lại và đang thích ứng dần với những gì hiện có. Rồi đây nó sẽ bằng lòng với cành hoa màu trắng và sự thiếu vắng hình bóng mẹ trong cuộc đời. Hiền cũng cảm thấy lòng mình trở nên nhẹ nhàng thanh thản. Thời kinh đã qua rồi. Những giây phút bùi ngùi cũng hết. Quanh cô chỉ còn đọng lại cái không khí đẫm mùi hương trầm nhè nhẹ, cùng với bao tấm lòng người đang toả sáng. Hiền ngước mắt nhìn lên ngôi Bảo Điện, cô đang khấn nguyện với Đấng Bổn Sư. Cô cầu nguyện cho mẹ, cho kẻ mất người còn đều được tận hưởng niềm an lạc vô biên trong mùa Vu Lan Thắng Hội này.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4714)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6652)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4880)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10117)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3644)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4841)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5066)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7579)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4251)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13487)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]