Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời cầu nguyện cho mùa xuân

10/04/201311:52(Xem: 4333)
Lời cầu nguyện cho mùa xuân

quantheambotat_1

LỜI NGUYỆN CẦU CHO MÙA XUÂN

Lam Khê

---o0o---

Mỗi sáng khi cầm chổi quét sạch những chiếc lá rụng đầy trước sân chùa, Tôi cứ tự hỏi:_ “ Người ta nếu không vì mục đích nào đó mà phấn đấu, để tin yêu thì cuộc đời này ắt sẽ nhàm chán lắm. Cũng như công việc tôi đang làm đây vậy. Mỗi sáng chiều ngoài giờ tụng niệm, Tôi chỉ lo quét dọn gom lá đem vào cho nhà trù đun nấu. Những chiếc lá cứ vô tư rơi rụng từ hạ sang đông, chắc cũng thấy mình có ích đôi chút khi được góp phần tu tạo phước đức trong ngôi Gìa lam này.

Lâu dần Tôi cũng quen và cảm thấy thích thú với công việc chấp tác thường ngày. Chẳng là khi mới vô chùa, Quý Sư Cô vẫn luôn bảo với Tôi rằng :_ “ Khi cầm chổi quét sạch rác rưởi chính là con đang quét sạch tâm mình. Hằng ngày tâm người ta phải chịu sự tác động của cuộc sống nên bụi trần dễ bám vào. Chỉ có người biết nhìn lại mình qua mỗi công việc, mỗi động tác, thì mới có thể giữ tâm cho thật trong sạch, thanh tịnh…”

Tôi chẳng biết có quét sạch hết những bụi bám trong tâm mình không. Nhưng sáng sớm được hít thở bầu không khí trong lành mát dịu; được ngắm nhìn vài cụm mây trắng bàng bạc bay lơ lững trên không, lòng cảm thấy thật khoan khoái dễ chịu. Cũng lắm khi…nhìn lướt qua khuôn viên của mình, tôi lại ngẫm nghĩ đến những chiếc lá vàng tội nghiệp quanh năm chỉ biết rơi rụng theo chiều gió, mà thương cho những thân phận trôi nổi giữa nẻo đời. Những lúc ấy, vừa cầm chổi quét Tôi vừa tâm nguyện cầu cho cuộc sống, cho vạn vật quanh mình luôn được sống trong sự bình yên an lạc, dưới bóng của ánh đạo từ bi soi sáng.

Suốt tuần lễ nay, trời cuối đông bỗng dưng trở lạnh hơn mọi khi; Vậy mà khi vừa bước ra sân tôi đã thấy có người đang quỳ lạy trước đài Quan Âm. Vì chùa ở vùng quê yên tĩnh ban đêm cũng ít khi đóng cổng rào. Trước sân chùa có một ao sen nhỏ, giữa ao là đài Quan Âm lộ thiên rất là uy nghi trầm mặc. Mỗi ngày sau khi quét dọn xong, Tôi thường đến trước hình tượng của Bồ Tát khấn nguyện. Ngài là vị hoá thân chắc chắn sẽ có mặt khắp nơi để nghe hết những lời nguyện cầu tha thiết của chúng sanh. Còn lúc này... trước mặt Tôi là một cô gái ngoại quốc. Cô bé có khuôn mặt thơ ngây bầu bỉnh với làn da trắng trẻo, đôi mắt xanh to cùng mái tóc màu vàng hoe được thắt bính gọn gàng. Cô vận áo thun trắng quần tây xanh _kiểu đồ thể thao, chân mang giày Bata. Dân ở đây sáng sớm đi bộ cũng thường ghé vào chùa lễ lạy cầu nguyện trước đài Quan Âm. Nhưng đây là lần đầu tiên Tôi gặp một người Nước ngoài xa lạ đến lễ Phật hết sức thành kính như vậy. Sự thành kính của cô lại biểu lộ ra vẻ bi hoài thương cảm. Cô gái hầu như không thấy nghe những gì đang xảy ra quanh mình, ngay cả tiếng chổi quét xào xạt của Tôi vang trên nền đất sỏi cũng không làm cho Cô chú ý ngẩng đầu nhìn lên.

Mấy ngày liền Tôi vẫn không thể trò chuyện với cô gái lạ được, bởi một lẽ...e ngại ngôn ngữ bất đồng. Hơn nữa, tôi sợ khuấy động sự thành tâm của cô, sợ làm cho đôi mắt xanh ngơ ngác như chú nai tơ kia phải ngần ngại không thể bày tỏ hết nguyện ước của mình giữa chốn tôn nghiêm. Khi trời sáng hẳn, cô đứng dậy khẽ cúi đầu chào Tôi, nói lí nhí vài câu cảm ơn bằng tiếng Việt rồi lặng lẽ ra về. Mọi việc rồi cũng trở lại bình thường khi cô không còn đến chùa mỗi sáng nữa. Tôi cũng chú tâm vào công việc của mình, thỉnh thoảng nghĩ đến cô như một hoa lạ bỗng lạc loài vào tận thôn trang vắng lặng này mà vẫn giữ được dáng vẻ vững vàng tự tin. Một cô gái đến từ phương xa, khác hẳn về phương ngôn sắc tộc, Nhưng Tôi vẫn thấy ở cô toát lên một phong cách của người Aù đông qua sự thành kính lễ lạy, qua ánh nhìn của đôi mắt có chiều sâu thăm thẳm.

Sáng nay khi tôi đang chăm chú lặt lá mai thì Cô gái hôm nọ lại đến. Cô đi cùng một phụ nữ, chắc là người ở vùng này.

_ Thưa Cô! Đây là Li Sa, cháu gái của tôi từ Pháp về._ Người đàn bà khẽ chào Tôi và nói:_ Nó bảo tôi dẫn đến đây để cám ơn Cô trong mấy ngày đến chùa cầu nguyện. Li Sa nói tiếng Việt chưa chuẩn lắm. Bà ngoại cháu là người ở đây nên thỉnh thoảng cháu cũng theo mẹ về thăm Quê ngoại.

Li Sa, Cái tên nghe cũng hay hay. Tôi nhìn cô bé, lúc này không còn nét ngại ngần như những ngày đầu, nhưng trong đôi mắt trong xanh ấy cứ dịu vợi những nỗi buồn xa vắng nào đó. Cô nói chuyện với âm giọng nhỏ nhẹ lơ lớ, nhưng Tôi cũng đoán hiểu được.

_ Hôm nay Li Sa đến để từ giã cô. Đáng lẽ Li Sa và mẹ ở lại ăn tết cổ truyền với Ngoại, nhưng vì lý do đột xuất mẹ phải trở về gấp vào ngày mai.

_ Dường như Li Sa có điều gì buồn lắm thì phải. Chắc tại cảnh vật ở miền Quê này chẳng có gì thú vị...

_ Không, Li Sa thích ăn tết với ngoại lắm. Li Sa muốn được đến chùa cầu nguyện. Ơ û đây Li sa cảm thấy thư thả thoải mái vô cùng, nhưng Li Sa vẫn buồn vì….

Cô bé nghẹn lời…. Đôi mắt buồn ẩn chứa nhiều tâm sự như tôi đã đoán ra ngay từ lúc mới gặp. Rồi người dì đã kể lại câu chuyện về cuộc đời của cô cháu gái. Bố Li Sa làm việc cho một hội từ thiện Quốc Tế. Ông đi nhiều nơi. Đến các nơi bị thiên tai động đất hoành hành, đến cả những vùng chiến sự đang nóng bỏng để cứu trợ giúp đở cho mọi người đang lâm vào cảnh đói khổ khốn cùng. Và trong chuyến đi định mệnh đầu mùa xuân năm ngoái, Ông bị bọn khủng bố bắt và giết hại cùng nhiều người khác. Li Sa suy sụp sau cái chết của Bố, và gần như mất hết phương hướng, niềm tin vào cuộc sống. Rồi cô bé bỏ luôn kỳ thi đại học. Người mẹ phải đưa con về quê ngoại cho khuây khoả.

_ Li Sa rất thích nghe ngoại tụng kinh. Dùø không hiểu gì nhưng Li Sa thấy tâm hồn mình được nhẹ nhàng yên tỉnh, vơi bớt nỗi thương tâm. Ngoại bảo Li Sa đến chùa cầu nguyện với Quan Âm Bồ tát, nhưng mai này…Li Sa phải theo mẹ trở về Nước…

Giọng cô bé lại đượm buồn, tôi phải cố lựa lời an ủi:

_ Cuộc đời luôn chứa đựng nhiều nỗi bất an đau khổ. Đức Phật khi vừa chứng đạo quả Bồ đề cũng đã từng nói“ Đời là biển khổ”. Khổ vì sanh lão bịnh tử, khổ vì thương yêu chia lìa, khổ vì gặp điều bất như ý. Từ trong biển khổ ấy Li Sa đã biết hướng lòng về nguồn sống tâm linh để tìm một nơi an ổn thuần thiện chơn chánh. Chính đìều này sẽ giúp Cô lấy lại lòng tin vào cuộc sống, cũng như giúp Cô can đảm chấp nhận với thực tại, can đảm vươn lên trong nỗi đau thương mất mát này…

Tôi nói một hơi mà quên mất là LiSa có thể không kịp hiểu hết bao nhiêu lời đó. Nhưng cô bé vẫn chăm chú nghe. Vần trán thông minh khẽ nhíu lại như để cố hiểu hết những triết lý mà Tôi vừa thốt ra. Một lúc lâu sau Cô mới lên tiếng trả lời, vẫn là những âm thanh nhỏ nhẹ đều đều của mấy lời bộc bạch chân thành :

_ Li sa luôn tự hào về người cha thân yêu của mình. Sự mất mát về một người thân yêu thật không có gì bù đắp được. Nhưng rồi ngày tháng trở về sống nơi quê ngoại, nhất là được nghe kinh, đọc sách mà ngoại và quý thầy đưa cho, đã giúp Li Sa cảm nhận ra nhiều điều.! Vâng! Li Sa phải can đảm chấp nhận thực tại. Mỗi con người sanh ra thường mang nỗi bất hạnh riêng. Hạnh phúc mong manh, nỗi bất hạnh thì dày vò. Chỉ khi lòng người ta biết hướng thượng, biết nghĩ và làm những điều tốt đẹp hơn, thì đời sống mới có ý nghĩa. Cuộc sống của người biết chia sẻ mới thực sự hưởng trọn niềm an vui và hạnh phúc.

Đến lúc này Tôi lại lắng tâm để nghe cho hết lời Li Sa. Cô nói rõ ràng mạch lạc. Tuy đôi lúc cũng ngập ngừng dừng lại và người dì phải bổ sung vài từ để cho Cô diễn đạt tiếp. Trò chuyện với hai dì cháu, Tôi được biết Li Sa dù tinh thần đang chao động sau cái chết của Bố, nhưng Cô cũng có nhiều dự tính cho tương lai của mình. Trước đây LiSa định thi vào trường Luật. Nhưng rồi đây Cô sẽ chọn ngành Đông phương hay Xã hội học. LiSa muốn đi theo con đường của Bố. Muốn làm một nhà từ thiện xã hội chơn chánh. Rồi đây cô lại sẽ đến những nơi cần đến để xoa dịu bao vết thương đời tang tóc.

_ LiSa không sợ nguy hiểm à!

_ Nếu Lisa có đủ niềm tin và nghị lực thì không có gì đáng sợ. Chẳng phải Bồ tát Quan Âm đã hoá thân đi khắp nơi để cứu giúp những chúng sanh đang kêu cứu đó sao? LiSa không dám ví mình như vậy. Nhưng LiSa sẽ học theo hạnh nguyện đó. Hằng ngày LiSa vẫn cầu nguyện Bồ Tát và điều đó giúp LiSa thêm vững vàng nội lực. Dù ở đâu LiSa vẫn không quên cầu nguyện và sống thật tốt. Mùa Xuân đang trở về. Mùa xuân ở nơi đây thật là bình dị an ổn. Điều mà Li Sa luôn cầu nguyện là làm sao cho mọi người được giác ngộ trong ánh sáng từ bi của Bồ tát, biết hướng về điều thiện, cùng chung sống chan hoà, cùng yêu thương san sẻ. Nếu ai cũng biết mong cầu những gì tốt đẹp nhất cho mình, thì cũng biết nghĩ đến người khác để không còn gây ra bao cảnh thù hằn chém giết tàn hại lẫn nhau…

Khi tiễn hai người khách mới quen ra khỏi hàng rào dâm bụt, Tôi cũng trở vào lo công việc của mình. Một cơn gió bấc thổi qua làm cho không khí của ngày tàn đông thêm se sắt lạnh. Cái lạnh của buối giao mùa mang hơi thở của một chút hồn xuân ấm áp. Lá trước sân chùa không còn rơi rụng nhiều nữa. Tiếng chổi nhẹ thưa, như tiếng lòng người hân hoan trước khung cảnh của một làng quê thanh bình êm ả. Tôi bước đến quỳ trước đài Quan Âm, bên tai vẫn thoảng nghe lời Cô gái vừa nói. Lời khấn cầu của những người con xa xứ nghe như một nhạc khúc êm đềm vang lên trong khu vườn xuân ngập tràn ánh nắng :_ “Chúng Ta hãy nguyện cầu cho cuộc sống của nhân loại hôm nay và mai sau. Nguyện cầu mùa xuân mãi mãi hiện hữu trong lòng người. Một mùa xuân an lành vĩnh cữu ngay chính nơi quê hương mình với biết bao niềm tin yêu bất tận”.

---o0o---

Trình bày:Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 20311)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3881)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8410)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7981)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9478)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4738)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2921)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4076)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3740)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 3785)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]