Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quảng Chân Tâm

11/08/201620:19(Xem: 4320)
Quảng Chân Tâm

Chu Tieu Nhat Tam (3)

Quảng Chân Tâm

 

Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.

Anh Quảng Phước lớn nhất được sư phụ giao nhiệm vụ quản chúng, chị Quảng Hoa phụ trách đời sống, chị Quảng Nhàn lo về việc học tập của bọn trẻ hơn ba chục đứa, chỉ có mình nó sư phụ đặt tên là Quảng Chân Tâm. Có lần nó thắc mắc thì được sư phụ dạy: Quảng là quảng đại, Chân Tâm là cái tâm chân chính, nguyên cái tên của con, thầy muốn sau này con có tấm lòng nhân ái, biết yêu thương mọi người và chân chánh từ lời nói đến việc làm.

Mỗi lần lên chánh điện lạy Phật nó đều cầu nguyện cho sư phụ có sức khỏe vì hiện nay thầy đã lớn tuổi lại hay đau bệnh, cầu nguyện cho mọi người trong chùa biết sống lục hòa. Có một lời cầu nguyện nó giấu kín trong lòng, chưa hề nói với ai, chỉ có Đức Phật và nó biết mà thôi, đó là đừng bao giờ gặp người đã từ chối và đem nó bỏ trước cổng chùa. Sau lần bị cô giáo chủ nhiệm đến chùa méc về tội đánh nhau với bạn, nó càng căm thù “người ấy” nhiều hơn. Nó rất ghét từ “con hoang” nên bao nhiêu trận đánh nhau với bạn cũng bắt đầu từ việc bị bạn gọi “mầy là đồ con hoang”.

Tại sao ai cũng có cha mẹ mà nó thì không! Trong tâm tư của nó luôn có hai tư tưởng đối lập nhau: Muốn có cha mẹ để không phải tủi thân vì chúng bạn trêu chọc nhưng lại thù hận cha mẹ vì đã bỏ rơi nó. Hồi tháng trước có một đoàn Phật tử đến thăm chùa, nó cũng chẳng quan tâm mấy vì đang là mùa An cư nên có nhiều đoàn đến cúng dường. Buổi tối sư phụ gọi nó lên liêu của ngài và cho biết có một Phật tử trong đoàn hành hương nhận ra nó là con của cô ấy vì cái bớt son ở bên má trái. Cô ấy rất hối hận, khi “gửi” con cho nhà chùa nuôi giúp cô chỉ mới 18 tuổi, do nông nổi, sợ ảnh hưởng đến gia đình, sợ bỏ học nửa chừng…hôm nay cô muốn nhận lại con. Sư phụ bảo nếu thử AND đúng thì sẽ cho mẹ con đoàn tụ.

Nó vô cảm trước tin này. Tại sao “người ấy” ích kỷ, chỉ biết “sợ” cho mình mà không nghĩ rằng nó đã đau khổ như thế nào khi cả tuổi thơ của nó phải sống trong mặc cảm là con hoang. Lúc trước ao ước được gặp mẹ bao nhiêu thì giờ đây nó mong cho “người ấy” đừng đến chùa, đừng làm cho nó tổn thương, hãy để cho nó làm con của sư phụ như những đứa trẻ mồ côi khác, cứ xem như nó là đứa mồ côi từ tấm bé. Thà như vậy còn hơn! Nó trả lời thẳng thừng với sư phụ:

_ Con không có mẹ, mẹ của con là thầy, xin thầy đừng bỏ con.

_ Thầy đâu có bỏ con, con vẫn là đệ tử chủa thầy. Mẹ của con bây giờ đã thành đạt, hiện là giám đốc của một công ty trách nhiệm hữu hạn, mẹ muốn đền bù cho con những lỗi lầm mà do vô minh mẹ đã làm tổn thương con…

Sư phụ còn nói nhiều nữa nhưng nó hầu như không nghe được gì? Nó gục đầu lên chân sư phụ khóc nức nở, khóc như chưa bao giờ được khóc. Thương đứa đệ tử tội nghiệp do chưa hiểu luật nhân quả nên vị thầy cứ để cho nó khóc.

_ Nếu nước mắt làm cho con vơi bớt nỗi khổ niềm đau thì con cứ khóc nhưng con nên nhớ, trên đời này không có gì tự nhiên. Mọi sự vật hiện tượng đều có nhân và duyên. Biết đâu trong quá khứ con đã từng gây đau khổ cho mẹ. Phật dạy tất cả người nam đều là ông, là cha là chú bác, là anh…; tất cả người nữ là mẹ, là cô dì, chị gái… của ta. Con đừng oán trách mẹ nữa, trước kia mẹ của con do chưa hiểu đạo nên đã gây ra lầm lỗi, bây giờ đã ăn năn sám hối, con cũng đừng cố chấp mà tạo nên tội lỗi. Trong Kinh Tăng chi I, 75 Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, có hai hạng người, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Đó là mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm như vậy suốt một trăm năm cho đến khi cha mẹ trăm tuổi. Như vậy. này các Tỳ-kheo, cũng chưa làm đủ để trả ơn cho mẹ và cha. Nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội và dù tại đấy, mẹ cha có vãi đại tiện, tiểu tiện, dù như vậy, này các Tỳ-kheo, cũng chưa làm đủ để trả ơn mẹ và cha”.

Tháng bảy mùa Vu an báo hiếu, chùa khai kinh “Báo đáp công ơn cha mẹ” từ tối mồng một, nó đã cùng với đại chúng tụng kinh Vu lan không biết bao nhiêu lần rồi nhưng hôm nay lòng nó rưng rưng cảm xúc. Nó thật sự hối hận, nước mắt tuôn trào.

Sau thời khóa, chờ cho mọi người ra về, nó lẳng lặng quỳ trước Đức Thế Tôn với lời khấn nguyện: “Kính bạch Đức Thế Tôn, con pháp danh Quảng Chân Tâm, kể từ hôm nay xin sám hối những lỗi ầm đã qua. Con không còn giận mẹ nữa, xin cho con được gặp mẹ, xin cho con được nói với mẹ lời xin lỗi chân thành nhất. Xin Đức Phật luôn hiện hữu trong từng lời nói, từng suy nghĩ, từng hành động của con để cho mỗi lời nói, mỗi suy nghĩ, mỗi hành động của con là của Ngài”.

Sau lời sám hối, nó thấy lòng thanh thản và nhẹ nhỏm. Nhìn lên tôn tượng Đức Bổn Sư, nó thấy hình như Ngài đang mỉm cười với nó. Ôi! Nụ cười của Ngài từ bi biết bao nhiêu. Kính lạy Ngài, con nguyện xin sống thật xứng đáng với pháp danh mà sư phụ của con đã đặt là Quảng Chân Tâm.


Quảng Ấn


 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2011(Xem: 3761)
Hồ Biểu Chánh (1884–1958), tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên; là một nhà văn tiên phong của miền Nam Việt Nam ở đầu thế kỷ 20. Ông sinh năm 1885 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ.
11/09/2011(Xem: 12663)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
06/09/2011(Xem: 10972)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
05/09/2011(Xem: 7607)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
05/09/2011(Xem: 6416)
Tinh thần Hoa Nghiêm từng dạy một câu rất thâm sâu nhưng chỉ cần lắng tâm là có thể nắm bắt được. Đó là: “Khoảnh khắc chứa đựng thiên thu”. Mỗi phút giây là mỗi thách thức của ta qua sự hiện hữu ở cõi Ta Bà này. Ta phải nghĩ thế nào để có chánh niệm, thở thế nào để có tỉnh thức, sống thế nào để có an lạc. Bước được một bước chân vào Tịnh Độ thì cần gì trăm năm?! Khoảnh khắc đó chính là thiên thu đấy.... Đức Phật là tiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
01/09/2011(Xem: 2936)
Lữ khách một mình trên lối mòn vào thung lũng An-nhiên. Núi rừng trùng điệp miền Bản-ngã-sơn huyền bí, nhàn nhạt ánh mặt trởi trên bóng lá thâm u. Mơ hồ đâu đó phảng phất khói lam ai đốt lau làm rẫy dưới sườn non.
31/08/2011(Xem: 13229)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
29/08/2011(Xem: 7195)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
29/08/2011(Xem: 14268)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
28/08/2011(Xem: 2978)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]