Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đường về Tây Trúc

27/05/201621:40(Xem: 6631)
Đường về Tây Trúc

Duong Ve Tay Truc (7)

ĐƯỜNG VỀ TÂY TRÚC


Hàn Long Ẩn

Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc đang theo học tiến sĩ ở New Delhi tình nguyện dẫn phái đoàn gồm 30 người đi Tứ Động Tâm và những thắng tích ở Ấn Độ. Chuyến bay đáp xuống phi trường New Delhi là chúng tôi được 2 sư cô và hai người của company Siddhartha International chào đón bằng những vòng hoa rất là Ấn Độ. Tôi cùng phái đoàn hân hoan lên xe bus về khách sạn và check in vào lúc 2 giờ sáng.

Ngủ được chừng 2 tiếng, mọi người đã lục đục thức dậy vì ngủ không được, bởi múi giờ Ấn Độ khác với giờ Mỹ - Mỹ ban ngày, Ấn Độ ban đêm. Tôi tắm rửa, đánh răng và xuống nhà ăn thì đã thấy mọi người hơn một nửa phái đoàn đã ở đó. Ăn sáng xong, 7 giờ là lên xe đi thăm viện bảo tàng lớn nhất ở New Delhi, nơi có Xá-lợi xương vai, ngực và hông của đức Phật được các nhà khảo cổ học đã tìm ra và đã thử DNA xác nhận đây là xương của đức Phật Thích Ca. Vua Thái Lan vì cung kính đức Phật nên đã đúc một bảo tháp bằng vàng thật nguyên khối cao khoảng nửa mét tặng cho viện bảo tàng để an trí Xá-lợi của Phật vào trong đó. Tôi cùng quý thầy, quý sư cô nhiễu quanh chiêm ngưỡng Xá-lợi 3 vòng, sau đó có buổi tụng kinh và ngồi thiền ngay trước tháp vàng thờ Xá-lợi Phật. Tôi cảm giác mình được may mắn như đứa con đã bao năm lưu lạc nay được trở về nhà và gặp lại bóng dáng người cha thân thương của mình. Quỳ trước Xá-lợi của Phật tôi đã để cảm xúc tuôn tràn qua mấy câu thơ sau:

Con quỳ đảnh lễ Từ-ân
Thế Tôn Xá-lợi kim thân của ngài
Dù cho nắng gió vàng phai
Dù cho mưa bão miệt mài tháng năm
Chúng con son sắc một lòng
Niềm tin bất diệt vào dòng pháp âm
Như Lai ơi, con về thăm
Nghe hương giác ngộ chảy quanh tế bào.

Sau khi đảnh lễ Xá-lợi Phật, chúng tôi đến một ngôi đền lớn nhất ở đây của đạo Hindu, đó là đền Asadam. Ngôi đền này chỉ mới xây khoảng 1 thập niên trở lại đây nhưng rất nguy nga tráng lệ, kinh phí lên tới hàng tỷ Mỹ kim. Cái hay của họ là những hoạt cảnh được dàn dựng một cách sống động bằng tượng sáp dựa trên lịch sử văn hoá, tôn giáo của đất nước Ấn Độ mấy nghìn năm qua, trong đó có lịch sử của đức Phật Thích Ca. Chúng tôi thật ngạc nhiên và khâm phục sự thông minh của họ. Thông minh là bởi, hễ ai đến Ấn Độ và đi vào ngôi đền này là đã biết căn bản về nền văn hóa lịch sử đáng tự hào của họ.

Rời New Delhi, chúng tôi đáp chuyến bay về Varanasi (Ba-la-nại), nơi đức Phật chuyển đẩy bánh xe chánh pháp lần đầu tiên cho 5 anh em Kiều Trần Như với bài pháp được xem như nền tảng của Phật giáo: Tứ Diệu Đế trong vườn Nai (Sarnath - Lộc Uyển). Một trong Tứ Động Tâm này đã khiến cho phái đoàn cảm thấy chấn động tâm hồn thực sự, mặc dù ở đây chỉ còn 1 trụ đá của vua A Dục được tu bổ và lác đác những chứng tích rêu phong. Ăn trưa xong, chúng tôi đến thăm Tinh Xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ (Sravasti - Thành Xá Vệ), Tinh Xá này do ông Cấp-cô-độc và thái tử Kỳ-đà hiến cúng. Đức Phật đã lưu trú và thuyết pháp ở đây suốt 27 năm và độ rất nhiều vị tăng sĩ cũng như cư sĩ. Chúng tôi đã tụng lại bài kinh năm xưa mà đức Phật đã thuyết cho các đệ tử của ngài tại đây, đó là bài kinh "Thực Tập Vô Ngã". Tụng kinh xong, tôi ngồi thiền và quán tưởng về hình ảnh của đức Thế Tôn. Đang suy tư dưới cội Bồ-đề thì bỗng 1 hạt Bồ-đề rơi xuống trước mặt tôi. Chắc là đức Phật nhắc nhở tôi là cần phát huy hơn nữa hạt giống Bồ-đề trong tâm!? Tôi nhặt lấy hạt Bồ-đề và thầm cảm ơn đức Phật. Mọi người xả thiền tiến về Hương Thất đức Phật, nơi đây chỉ còn lại nền nhà bằng gạch đỏ đã ngả màu. Những giọt nước mắt xúc động đã rơi khi quỳ nơi Hương Thất đức Phật. Một số người đã nói trong thổn thức, sụt sùi “Phật ơi, giá như Ngài đang còn ở đây để độ cho con!”.

Tạm chia tay Xá Vệ Thành, chúng tôi lên xe hướng về Nepal, vườn Lâm Tì Ni (Lumbini), nơi đức Thế Tôn giáng trần đã làm rung chuyển Tam Thiên Đại Thiên thế giới từ năm 623 trước công nguyên cho đến tận bây giờ. Chỗ đức Phật đản sanh nay được xây một ngôi đền bao bọc xung quanh, bên ngoài là một khu vườn rất đẹp có hồ nước, có trụ đá của vua A Dục xây vào khoảng 250 năm sau khi đức Phật nhập diệt và có cây Bồ-đề rất lớn làm nơi toạ thiền hoặc tụng kinh cho các phái đoàn hành hương. Tôi chọn một góc xa xa trong khu vườn để nhìn tổng quát về nơi đã đánh dấu sự ra đời của một bậc toàn tri diệu giác "vô tiền khoáng hậu", bất chợt có một luồn cảm giác rất lạ chảy qua dòng tâm thức. Tôi bỗng nghe văng vẳng tiếng hát mở đầu trong tác phẩm “Ánh Đạo Vàng” của Võ Đình Cường vọng lại, rất gần:

“Nhân loại ơi! Có hay chăng một vị Giác Ngộ mới ra đời?
Chúng sanh ơi! Một đấng Đại từ, Đại bi, Đại trí, Đại đức vừa xuất hiện ở dưới trần!
Ôi hân hoan, hân hoan cho toàn cả mấy tầng trời, vì chúng sanh ơi, một đóa hoa Đàm nở, một ánh sáng lạ chói ngời!
Này ai ơi! Hãy đi về phía nam dãy núi Hy-mã-lạp-sơn, vì chính ở đấy đã ra đời một đức Phật”.

Nepal là một đất nước nhỏ giáp ranh Ấn Độ, tuy nghèo nhưng đi đâu chúng tôi cũng thấy có những cái cỗng cao ở giữa đường, phía trên đều có tượng Phật Thích Ca. Trước khi rời Nepal, chúng tôi đã phát quà cho hơn 500 người lớn cũng như em nhỏ có hoàn cảnh khó khăn ở đây. Nhìn những em nhỏ nước da đen nhẻm với bộ áo quần xộc xệch cầm trên tay phần quà miệng mỉm cười làm chúng tôi cũng cảm thấy thương họ hơn bao giờ hết.

Bỏ lại Lumbini, chuyến xe đưa chúng tôi đến Kushinagar , nơi đức Phật đã nhập vào vô dư Niết Bàn dưới cây Ta La song thọ. Thầy Tánh Tuệ và quý sư cô đã chuẩn bị sẵn một tấm y màu vàng rất lớn và những cành hoa để dâng lên cúng Phật. Chúng tôi cầm mỗi người mỗi góc theo hình chữ nhật của tấm y vừa đi vừa niệm Phật từ ngoài vào trong Bảo tháp. Khi nhìn thấy hình ảnh đức Phật nhập Niết Bàn thì hầu như tất cả mọi người trong phái đoàn đều không cầm được nước mắt. Tôi phóng tâm về quá khứ và tưởng tượng thời điểm khi đức Phật nhập diệt, chắc hàng đệ tử của ngài cũng ngậm ngùi gấp trăm ngàn lần bây giờ.

Gạt dòng nước mắt ngậm ngùi, đoàn hành hương hướng về Vệ Xá Ly (Vaishali), nơi có giảng đường Trùng Cát mà ngày xưa đức Phật tiếp nhận phụ nữ vào hàng ngũ xuất gia của Phật. Ở đây, quý thầy giao cho quý sư cô hướng dẫn tụng kinh, ngồi thiền để nhớ về sự đóng lớn lao một thời của bà di mẫu Kiều Đàm Di và Ni chúng. Theo như lời chia sẻ của thầy Tánh Tuệ là, với văn hoá "trọng nam khinh nữ" thời bấy giờ mà đức Phật nhận nữ giới vào hàng Chúng Trung Tôn là một sự kiện chấn động toàn đất nước Ấn Độ. Chính đức Phật đã 3 lần từ chối, nhưng nhờ A Nan cầu thỉnh nhiều lần nên đức Thế Tôn mới thâu nhận sau khi đưa ra Bát Kỉnh Pháp. Và cũng chính nhờ Bát Kỉnh Pháp mà Ni giới có được đức hạnh trang nghiêm, giới quy nghiêm mật, được chư Tăng che chở từ thời đức Phật cho đến thời nay.

Vẫy tay chào Vaishali, chúng tôi hướng về Kỳ Xà Quật khi trời vừa nhá nhem tối, mọi người cơm nước xong là ngủ để chuẩn bị cho sáng ngày mai lên Núi Linh Thứu. Phái đoàn được đánh thức vào lúc 5 giờ sáng để chuẩn bị leo núi, vì nếu đi trễ sau khi mặt trời lên cao thì rất nóng. Tưởng rằng chúng tôi đi vậy là sớm, ai dè lên đó còn phải xếp hàng sau hai ba phái đoàn từ nước khác nữa. Theo như lời kể của mấy người trên đó thì mỗi ngày từ sáng tới tối có cả mấy chục phái đoàn chứ không riêng gì những phái đoàn buổi sáng như chúng tôi. Tôi có thầy bạn hiệu là Pháp Tịnh học ở Ấn Độ, mỗi khi được nghỉ lễ thầy đều về đây tụng kinh Pháp hoa hằng đêm. Tôi hỏi: "Tối như vậy sao thấy đường mà tụng?". Thầy trả lời: "Dùng đèn bin!". Nói vậy để thấy được tấm lòng của người xuất gia cũng như tại gia lúc nào cũng hướng về Đức Phật với niềm tin bất diệt. Phái đoàn Miến Điện xong là đến phái đoàn chúng tôi, mọi người thỉnh 1 tượng Phật nho nhỏ ra cùng với hoa trái và chúng tôi bắt đầu thời kinh sáng. Sau khi tụng kinh xong, chúng tôi ngồi thiền khoảng 15 phút. Mặt trời trên đỉnh Linh Thứu màu đỏ xẩm, không như những nơi khác mà chúng tôi đã từng thấy. Ánh nắng xuyên qua làn mây toả ánh sáng rực rỡ xuống đỉnh Linh Thứu, kết hợp lời kinh tiếng mõ trong cảnh rừng u tịch, chúng tôi cảm giác như có sự hiện diện của đức Phật cùng với hàng trăm đệ tử thánh chúng của Ngài trên đỉnh Linh Thứu. Một luồn cảm xúc dâng tràn trong tim tôi, tôi cảm tác:

Ta chống gậy về Linh Sơn một bận
Nghe âm vang lời Phật dạy năm nào
Kinh Diệu Pháp, kinh Kim Cang, Bát Nhã
Mặt trời lên vắng bặt dấu chiêm bao!

Trưa hôm đó, sau khi ăn cơm xong là chúng tôi lên xe hướng về Bodh Gaya - Bồ Đề Đạo Tràng. Tại đây, chúng tôi đã đi thăm Khổ Hạnh Lâm. Chuyến xe đưa chúng tôi đến chân núi. Từ chân núi lên đến hang đá khoảng chừng 1 cây số, ai muốn đi bộ thì đi, ai muốn đi xe ôm cũng có luôn. Đặt biệt, có loại dịch vụ mà tôi chưa từng thấy trên thế giới, tôi tạm gọi đó là dịch vụ “đẩy lưng”, tức là có một người đi phía sau dùng tay đẩy ở sau lưng khi lên dốc, mà đa số là các em nhỏ làm dịch vụ này. Tôi trẻ, nên chọn phương pháp đi bộ, nhưng cũng bị một “anh dịch vụ” khoảng 8 tuổi tự nguyện đẩy lên tận hang đá, nơi đức Phật tu khổ hạnh, tất nhiên tôi cũng không nỡ để “anh dịch vụ” thiệt thòi.
Hiện ra trước mắt tôi là vách đá cheo leo, dựng đứng, nhưng người ta đã làm một bậc cấp để đi lên cái hang nhỏ rộng khoảng chừng 4 mét vuông. Chính nơi này, đức Phật đã tu mấy năm và chỉ ăn mỗi ngày 1 hạt mè. Nghĩ đến đó, đôi chân tôi bất chợt quỳ xuống, hai tay chắp tại, cúi đầu đảnh lễ sát đất.

Rời Khổ Hạnh Lâm, chúng tôi trở về thăm ngôi làng có nàng Sujata đã dâng bát cháo sữa cho đức Phật, khi ngài đuối sức bên dòng sông Ni Liên Thuyền. Dòng sông Ni Liên Thuyền không biết hồi còn đức Phật nó có nước quanh năm hay không, nhưng bây giờ dòng sông đó chỉ có nước mấy tháng mùa đông mưa lũ, còn những tháng khác thì không có nước, chỉ có cát bồi.

Về Bồ Đề Đạo Tràng, cả phái đoàn bắt đầu lễ dâng y cúng dường tôn tượng đức Phật ở ngay chính giữa tháp Giác Ngộ. Sau phần dâng y là các Khóa lễ như tụng kinh sáng, thuyết pháp, ngồi thiền suốt cả ngày cùng với hàng ngàn người đến từ khắp nơi trên thế giới.
Ngoài ra, chúng tôi có phát khoảng 600 phần quà gồm: Bột, đường, gạo, dầu, áo sari…cho một ngôi làng gần Bồ Đề Đạo Tràng. Để thực hiện buổi từ thiện này cũng mất rất nhiều công sức, thời gian và phải nhờ thêm 2 người Ấn Độ bên đó vào tận ngôi làng từ ngày hôm qua để phát 600 phiếu trước cho người nghèo khó thực sự. Hôm đó cả phái đoàn toát cả mồ hôi hột, phần vì trời nắng, phần vì sự chen lấn của cả hơn 600 người.

Chúng tôi về khách sạn cũng là lúc trời nhá nhem tối. Mọi người ăn tối xong và đi ngủ để ngày mai tiếp tục ngày tu tập dưới cội Bồ đề, nơi đức Phật đã thành đạo gần 3 nghìn năm trước. Sáng sớm chúng tôi đã có mặt ở Bồ Đề Đạo Tràng lúc 5 giờ. Những tưởng vậy là sớm nhưng chúng tôi còn trễ hơn loài chim ở đây. Không biết là chúng nó có tụng kinh theo nghi thức của nó hay không mà mỗi ngày chúng bay đến cả hàng triệu con rồi hót vang những âm thanh rất du dương, trầm bỗng. Điều tôi rất lấy làm lạ là chúng bay đến rất đúng giờ, sáng khoảng từ 4 giờ đến 6 giờ, chiều từ 5 giờ đến 7 giờ. Cũng vì nhiều chim quá nên có anh Phật tử trong phái đoàn gặp "tai nạn". Chuyện là anh ấy đang lim dim mắt ngồi thiền thì bỗng một "vật thể lạ" rơi từ một chú chim đang đau bụng nào đó xuống chân anh, anh mừng thầm vì nghĩ rằng chắc là mình ngồi thiền thành tâm quá Phật thương nên cho hạt giống Bồ đề. Đang lâng lâng mỉm cười hạnh phúc với thành quả của mình thì chị vợ ngồi kế bên la lớn: "Anh ơi, chim nó ị trên chân anh kìa!".

Sau thời kinh sáng là thời thuyết pháp. Tôi đang say sưa giảng về bài kinh "Ba Dấu Ấn Thực Tại" thì bỗng một chú chó từ đâu tiến lại gần chỗ tôi ngồi rồi sà vào lòng tôi như đã quen nhau từ kiếp trước. Quý Phật tử đang nghe pháp bỗng ồ lên 1 tiếng rồi đem điện thoại ra chụp hình. Có người nói: "Chắc kiếp trước nó là đệ tử thầy!". Tôi để yên vậy và giảng hết bài pháp. Sau khi giảng xong, tôi quy y gieo duyên cho nó và đặt pháp danh là "Tu Đi", ý là mong nó tu đi để tái sanh làm người gặp Phật pháp mà tu tiếp. Đừng có tu...hú là được, vì vừa tu mà vừa hú thì lâu làm người lắm!
Sáng hôm sau tôi và mọi người chọn một nơi khác để hành lễ, nhưng Tu Đi vẫn tìm ra tôi và lại sà vào lòng. Mọi người được thêm một phen ngạc nhiên nữa.

Ở Bồ Đề Đạo Tràng hàng ngày có cả mấy nghìn người gồm cả tu sĩ lẫn cư sĩ lễ bái và tu tập. Mỗi người tụng kinh mỗi kiểu, hành thiền mỗi kiểu, lạy mỗi kiểu, nhưng rất trang nghiêm và không ai làm phiền ai cả. Tôi rất kính phục họ. Bốn ngày ở Bồ Đề Đạo Tràng tôi cảm thấy thật hạnh phúc và an lạc, tuy mình tu chỉ như hạt cát so với những người họ tu như đá, như núi ở đó. Họ lạy mỗi ngày cả mấy nghìn lạy mà vẫn tỉnh queo. Tôi thực sự ngưỡng mộ họ!
Ấn tượng về Bồ Đề Đạo Tràng, tôi cảm tác:

Sáng nay bên cội Bồ đề
Trời, người hoan hỉ chim về đọc kinh
Ba nghìn năm, một bóng hình
Như Lai còn đó, ân tình còn đây.
Tử sinh cuộc mộng đoạ đầy
Trầm luân kiếp nọ kiếp này từ đâu
Chắp tay con chỉ nguyện cầu
Muôn đời được gặp pháp mầu Thế Tôn.

Mọi người rời Bồ Đề Đạo Tràng trong lưu luyến để đón chuyến tàu đêm về lại New Dehli. Đi ga tàu Ấn Độ, chúng tôi cũng trải nghiệm được nhiều điều thú vị, trong đó có cả điều thú vị không thể nói bằng lời, mà chỉ cảm nhận bằng lỗ mũi!

Chuyến tàu đưa chúng tôi về khách sạn ở New Dehli vào buổi trưa hôm sau. Chúng tôi về Khách sạn và chuẩn bị cho buổi tiệc trà chia tay tối hôm đó. Thầy Tánh Tuệ chủ trì buổi trà đàm đã mở đầu bằng "bài diễn văn" làm mọi người cười nghiêng ngả với những câu nói dí dỏm của thầy. Tôi cũng góp mấy lời thơ vui. Hôm đó ai cũng được chia sẻ, tâm tình những gì mình chứng kiến, đi qua, cảm nhận về quê hương đất Phật. Sau tiếng cười là những dòng lệ sụt sùi luyến tiếc. Hầu như mọi người trong phái đoàn đều có một suy nghĩ chung là: Ấn Độ ơi, hẹn ngày ta trở lại!

 

New Dehli, ngày 30 tháng 10 năm 2015


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2017(Xem: 4439)
Hôm nay ngày 1.11 tôi viết bài này chỉ nhằm kể một câu chuyện thực tế lịch sử; vì đâu, nguyên nhân, tôi xin miễn đào sâu vì cũng không có đủ hiểu biết, thời gian và cũng không phải mục đích tôi muốn chia sẻ ở đây! Ba mẹ tôi đều sinh ra và lớn lên tại Huế, học xong tú tài ở trường Khải Định năm 1955 (tên lúc bấy giờ của trường Quốc Học Huế). Giai đoạn đó đất nước vừa chia đôi, TT Ngô Đình Diệm vừa chấp chính. Ông Diệm xuất thân từ gia đình quan lại, bản thân ông cũng từng đỗ đạt ra làm thượng thư như cha của ông là Ngô Đình Khả, anh là Ngô Đình Khôi, nên rất trọng bằng cấp, học vấn như lối suy nghĩ của tầng lớp trí thức nho học thời bấy giờ. Vì vậy ông Diệm rất ưu tiên cho ngành giáo dục, đặc biệt trong giai đoạn sau 1954 khi người Pháp rời khỏi VN, cần xây dựng một nền giáo dục bản xứ thay thế cho nền giáo dục thuộc địa của Pháp.
19/10/2017(Xem: 14394)
Truyện thơ: Hoàng Tử Khéo Nói và Con Thủy Quái, (thi hóa, phỏng dịch theo bản văn xuôi PRINCE GOODSPEAKER AND THE WATER DEMON của Ven. Kurunegoda Piyatissa & Tod Anderson) , Ngày xưa có một ông vua Trị vì đất nước rất ư công bằng Cạnh bên hoàng hậu đoan trang Vua yêu, vua quý, chứa chan hương tình. Thế rồi hoàng hậu hạ sinh Một trai kháu khỉnh đẹp xinh vô cùng Nhà vua sung sướng vui mừng Nghĩ suy chọn lựa tìm đường đặt tên Mong cho con lúc lớn lên Vẻ vang ngôi vị, êm đềm tương lai Vua bèn đặt tên con trai Hoàng tử Khéo Nói, nhiều tài mai sau.
06/09/2017(Xem: 7493)
Hạt hồ đào (walnut) ăn rất ngon nhưng cái vỏ của nó rất cứng. Ở Tây phương người ta có chế ra một cái kẹp sắt, chỉ cần bóp mạnh cái kẹp thì vỏ hồ đào vỡ và ta có thể thưởng thức ngay hương vị thơm ngọt và bùi của hồ đào. Có những kẻ trong chúng ta đã từng bị lúng túng trong khi đọc những bài kệ Trung Quán Luận. Nhưng trong hai mùa Đông năm 2001-2002 và 2002-2003, thầy của chúng tôi là thiền sư Nhất Hạnh đã giảng giải cho chúng tôi nghe và hiểu được những bài kệ ấy một cách dễ dàng và thích thú. Sách này ghi lại những bài giảng của thầy về sáu phẩm căn bản của Trung Quán Luận, các phẩm Nhân Duyên, Khứ Lai, Tứ Đế, Hữu Vô, Nhiên Khả Nhiên và Niết Bàn
31/08/2017(Xem: 5117)
Vào một buổi tối mùa đông cách đây hơn 30 năm, tại thủ đô Washington của nước Mỹ, một quý bà không may đánh rơi chiếc cặp tài liệu trong bệnh viện. Chồng của quý bà là một thương nhân giàu có. Ông đã vội vã quay lại bệnh viện giữa đêm hôm để tìm kiếm, bởi vì trong chiếc cặp không chỉ là rất nhiều tiền mà còn có cả một tập tài liệu mang thông tin mật của thị trường tài chính. Vị thương nhân đang đảo mắt tìm kiếm thì thấy một đứa trẻ rách rưới đứng ở hành lang bệnh viện. Cô bé đứng dựa vào tường, người vẫn còn co rúm trong bộ quần áo mỏng manh. Và trên tay cô bé chính là chiếc cặp mà vợ ông đánh mất.
29/08/2017(Xem: 6900)
Khi tôi 26 tuổi, tôi hạ sinh một bé trai kháu khỉnh. George có mái tóc đen, mắt xanh và cặp lông nheo dài tôi chưa bao giờ thấy ai có được như vậy. Cu cậu bắt đầu nói khi được chín tháng, đi được khi được mười tháng và có thể bay nhảy khi được hai tuổi. Cậu bé là niềm vui của tôi, và tôi yêu thương thằng bé hơn cả tình thương mà tôi có. Đứa Con Trai Hoàn Hảo, Sharon Drew Morgan, Quảng Tịnh dịch
21/08/2017(Xem: 4741)
Tại Sao Tôi Đi Tu ? Thích Từ Lực và Trần Mạnh Toàn, Thường ngày, cảm giác của người bị phong tỏa, rình rập và đe dọa từng giây từng phút khiến anh thấy như quên mất con người riêng của mình. Nỗi buồn, vui, rung động trước ngọn gió cuối năm như đã xa rời anh. Tiếng súng và trọng pháo vắng hẳn trong buổi chiều hưu chiến. Anh không nghĩ có thể tạm quên được sự nguy hiểm, báo động thường xuyên nhưng sự vắng lặng của chiều cuối năm khiến cho những xúc động trong lòng dậy lên như âm binh được điều động. Ngọn gió nơi chân đồi bỗng làm anh thấy gờn gợn đôi tay trần. Ngọn gió y hệt như lúc vi vu bên hàng chè trước nhà vào chiều ba mươi tết, lúc mà anh giúp mẹ đặt nồi bánh chưng lên bếp lửa. “Tết ni được no rồi.” Bấy giờ, anh chẳng để ý để hiểu hết câu nói của mẹ, vừa nói, đôi tay chai sạn vừa đẩy mấy gộc tre vào lòng bếp.
09/08/2017(Xem: 4320)
Tôi về ở trong appartement này đã hơn 20 năm, một khoảng thời gian dài đủ để chứng kiến bao cảnh tang thương biến đổi của cuộc đời. Bóng xế hoàng hôn ảm đạm dàn xuống chung cư này nhiều hơn là ánh sáng rực rỡ của những buổi bình minh... Những năm đầu khi tôi mới đến, vợ chồng ông Damhart ở tầng 1 là một cặp vợ chồng đã được nhiều người yêu mến về tính tình cởi mở, luôn luôn hòa nhã với mọi người. Bà rất siêng năng mẫu mực, làm việc nhà không biết mỏi mệt, lúc nào cũng mang sẵn một cái tablier trước ngực. Tôi có cảm tưởng như công việc nhà của Bà làm không bao giờ hết được. Và gặp ai cũng vui vẻ dừng lại, hỏi thăm đôi ba câu rồi mới chịu đi. Ông chồng lại rất vui tính với nụ cười hiền hòa thật dễ thương. Rồi dần dà, Bà bị đau, không còn nhớ gì, đi gõ cửa hết nhà này đến nhà khác, có khi quên cả lối về! Cuối cùng thì không còn đi được n
28/07/2017(Xem: 4485)
Sau những cơn nắng luộc da vào Hạ, trời Hà Nội có vẻ dịu hẳn, phố phừng dập dìu xe cộ. Căn nhà nằm sâu trong đoạn đường vừa khai phóng, đối diện với một cao ốc, tầng dưới là siêu thị đơn điệu vài mặt hàng không đủ cho khách vãng lai dán mắt nhìn. Căn nhà của cô Chung, trưởng đoàn từ thiện, là cứ điểm để nhóm Từ Tâm - Hiểu và Thương hàng năm vê đây làm nơi phát xuất chuyến lữ hành mãi tận vùng Tây Bắc, cận biên Việt-Trung. Gia Lâm là một huyện ngoại thành phía đông của thành phố Hà Nội, cách trung tâm thành phố 8 km. Đây là cửa ngõ để đi sang các tỉnh thành phía Đông như Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên...
04/07/2017(Xem: 10639)
Từ hai ba tháng qua, hầu như ngày nào tôi cũng dành thì giờ ôn lại các bài học của Bụt Thích Ca trong tập phim Buddha, do nhà sản xuất Modi đưa lên mạng Youtube từ năm 2016. Khi được bạn bè giới thiệu cuốn phim này, tôi coi mấy đoạn đầu, rồi nhảy cách tới đoạn Buddha thành đạo (tập 34), và coi tiếp sau đó tập 41 tả cảnh Buddha về thánh Ca Tỳ La Vệ thăm gia đình. Đoạn 41 này rất hay, đạo diễn và tài tử đều diễn tảđược tình cảm của Buddha và bà vợ mà ông rất thương yêu trước khi đi tu.
02/07/2017(Xem: 5916)
Tống Văn đời Đường được bổ nhiệm làm tri phủ Tô Châu. Là người nổi tiếng thanh liêm, chính trực nhưng lại trọng Nho, khinh Thích. Khi về trấn nhậm Tô Châu nghe nói sự cụ Chùa Hàn Sơn là bậc tu hành đắc đạo nhưng không tin. Tống Văn lý luận rằng: Tụng kinh gõ mõ, lóc cóc leng keng ai làm chẳng được. Người tu hành không quyền thế, không binh lính trong tay, không hiền lành thì hung dữ với ai. Lại nữa, có tỏ ra hiền lành thì thập phương mới cúng kiếng chứ hung dữ thì chỉ có nước bỏ chùa đi ăn mày…cho nên tìm cách thử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]