Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoài Niệm Tuổi Thơ

07/04/201612:05(Xem: 3631)
Hoài Niệm Tuổi Thơ

 

chim bo cau

Hoài Niệm Tuổi Thơ


 

Tôi có một ông bác họ, Bác Hương Thạch, thành viên Hội Đồng Hương Chính thời kỳ sau Hiệp Định Geneve năm 1954, tức là một Ủy Viên của Ủy Ban Hành Chánh Xã, lúc đó khoảng gần 60 tuổi mà tôi thì còn con nít mới 9 tuổi.  Ông bác này có một chiếc nhà nhỏ bằng gỗ ván thùng cây để nuôi chim bồ-câu.  Chiếc nhà gỗ nhỏ đó khoảng 50 cm x 50 cm x 40 cm có hai cửa tròn để chim bồ câu ra vào.  Bác sơn chiếc nhà màu xanh da trời rất đẹp rồi đặt lên trên một cây trụ khá cao, có lẽ khoảng 5 đến 6 mét.  Bác nuôi một cặp chim bồ câu gồm một trống và một mái.


Em trai của Bác Hương Thạch là bác Chính.  Bác Chính có một người con trai trưởng là anh Hai Khẩn.  Anh Hai Khẩn đã lập gia đình và có một đứa con trai, nhà của anh Hai Khẩn ở cùng trong làng và cách nhà bác Hương Thạch dưới một cây số.  Bắt chước bác Hương Thạch, anh Hai Khẩn đóng một căn nhà gỗ ba tầng để nuôi chim bồ câu với kích thước tương tự như căn nhà gỗ nhỏ của bác Hương Thạch, nhưng anh Hai Khẩn sơn căn nhà gỗ nhỏ đó ba màu, mỗi tầng một màu gồm xanh da trời, tím, và hồng.  Ban đầu anh Hai Khẩn cũng chỉ nuôi một cặp bồ câu mặc dầu thùng nhà gỗ có đến ba tầng thì đáng lẽ anh ấy nuôi được đến sáu con chim bồ câu.

Ba chén bỏ lúa cho chim ăn thì không khác chiếc chén bên chuồng chim của bác Hương Thạch, nhưng dĩa lớn chứa nước cho chim uống thì chỉ có một cho cả ba tầng.  Anh Hai Khẩn dùng chiếc ống chích thuốc (syringe) để mỗi ngày cho một ít nước trà đường vào dĩa nước giếng cho chim uống; lượng nước trà đường mỗi ngày một nhiều hơn, và nước trà mỗi ngày một đậm hơn.


chim bo cau 1

Sau một thời gian, không biết chim bồ câu ở đâu, chứ trong làng và trong xã lúc đó thì không có ai nuôi chim bồ câu cả, lại tập trung về sống trong chiếc thùng gỗ ba tầng của anh Hai Khẩn có đến những trên hai mươi con; tất nhiên là có cả hai con chim bồ câu của bác Hương Thạch nữa.

Trước nay trong xã ai cũng nhìn bác Hương Thạch là một nhà hào phú nhân đức, một vị nhân sĩ khiêm tốn, luôn luôn giúp đỡ người cùng khó trong làng, nhưng từ khi bác Hương Thạch chửi vợ chồng anh Hai Khẩn đã "ăn cắp" đôi chim bồ câu của bác bằng những lời lẽ thô tục thì mọi người từ từ xa lánh bác.  Mặc dầu chị Hai Khẩn hứa chiều hôm đó khi chim bay về chuồng thì chị sẽ cho bắt hai con bồ câu của bác Hương Thạch nhốt vào lồng tre rồi đem đến nhà để trả lại cho bác mà bác vẫn chửi chị Hai Khẩn là "con đ ... !"  Thật sự chị Hai Khẩn không có lỗi gì vì ngay cả việc đóng thùng gỗ nuôi chim bồ câu cũng là "sáng kiến" riêng của chồng chị chứ chị không can dự vào.


chim bo cau 2

Việc chửi nhau thô bạo giữa người bác và vợ chồng người cháu ruột đã làm cho tôi sửng sờ mà người anh lớn của tôi còn làm cho tôi kinh khiếp hơn.   Anh nói: 

- Tại em đó !

- Tại em ?

- Ai biểu em khen anh Hai Khẩn giỏi, làm thùng chim đẹp, và biết cách dụ chim về ... .

- Em đâu có nói với bác Hương Thạch

- Em nhốt được gió sao ?  Lời em nói đã bay trong gió đến với bác Hương Thạch, em biết không.

- Trời đất !  Em có lỗi với anh Hai Khẩn quá, nhất là với chị Hai Khẩn.

- Do vậy, trước khi em đi Đà Nẵng để học Lớp Nhì và Lớp Nhất thì anh nói với em lời này và em phải ghi nhớ đó nghe.  

Phàm là con người thì ai cũng tự cho mình là nhất, là số một; vậy em đừng bao giờ nói ai là số hai, là đứng nhì trong mọi trường hợp.  

Và anh có một điều nữa muốn nói với em.  Em thấy con trâu, con bò, con heo khi sinh con thì bao lâu con mới sinh của nó đứng lên đi được ?

- Chỉ trong một vài giờ hay nhiều lắm là một buổi vì khi con bò con sinh ra buổi sáng thì buổi chiều nó đã chập chửng theo mẹ nó để đi về chuồng được rồi.

- Thế con người thì trong bao lâu mới tự đi được ?

- Em không biết, nhưng dường như khoảng một năm, phải không anh ?

- Đúng rồi, nhưng tại sao con người thông minh hơn con vật mà yếu quá vậy ?

- Em không biết nữa !

- Và đấy là điều thứ hai anh sẽ dạy cho em biết và em phải nhớ giữ trong lòng nghe.  Đúng là con người thông minh hơn con vật mà cái thông minh đó đặt ở đâu trong thân thể con người ?  Đặt ở trong bộ óc của con người mà bộ óc thì ở trong cái đầu nên cái đầu trước hết là "lớn" hơn cái mình và tay chân.  Vì cái đầu lớn trước và lớn nhanh hơn thân thể nên người mẹ phải sinh con sớm khi con chưa đủ mạnh như con vật; nếu chờ cho con đủ sức khỏe như con vật thì cái đầu đứa bé lớn quá, không thể sinh được.  Em ghi nhớ lấy rồi sau này khi em học về thân thể con người thì em sẽ hiểu.  Việc anh cần em ghi nhớ là bộ óc được đặt vào vị trí cao nhất trong một vỏ bọc với một loại xương cứng chắc nhất.  Trong mọi trường hợp thì em phải bảo vệ cái đầu trước hết, khi cái đầu không thể bảo vệ trọn vẹn thì phải quyết tâm bảo vệ bộ óc vì nếu bộ óc bị tổn thương thì em xem như đã chết.  Để em dễ hiểu thì anh đưa ra một ví dụ.  Ở trường em, khi không có ông hiệu trưởng thì mọi việc đều lộn xộn.  Ông hiệu trưởng ví như bộ óc của trường em vậy.  

 

Trần Việt Long

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2010(Xem: 2085)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 3317)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2663)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2817)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2179)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2038)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1860)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2254)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1707)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3289)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567