Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Huyền sử một ngôi chùa

26/11/201517:52(Xem: 3573)
Huyền sử một ngôi chùa



chuyen vuot tuong huyen su mot ngoi chua

 

Tại thành phố Berlin thủ đô của nước Đức, có một ngôi chùa mang tên một ngọn núi thiêng, nơi Đức Phật ngày xưa hay thuyết Pháp, đó là chùa Linh Thứu. Vị trụ trì hiện nay mang một cái tên là Diệu Phước, nên các thiện nam tín nữ đổ xô về chùa lễ bái rất đông vì tin rằng chùa này rất “linh“ và cầu xin gì cũng được nhiều “phước“. Quả thật thế! Một số đại gia đến chùa làm công quả, lúc đầu chỉ có một nhà hàng cơ sở làm ăn, sau vài năm ôi thôi cửa tiệm mọc ra như nấm, tiền thu vào đếm không xuể. Thế là họ lại càng tin tưởng vào phước đức của ngôi chùa, từ đấy ngôi chùa Linh Thứu đã đi vào huyền thoại.

Ngược dòng thời gian của 26 năm về trước, những ngày cuối thu của năm 1989. Ngôi Niệm Phật Đường Linh Thứu mới dọn về địa điểm mới ở số 6 đường Krefelder, tường mới quét vôi, thảm vừa trải thẳng, chánh điện mới trang hoàng một cách đơn sơ không đủ thời gian để làm lễ An Vị Phật. Lúc ấy tình hình xứ Đức đang bước vào một khúc quanh lớn, cả một ý thức hệ khối Cộng Sản Đông Âu bị tan rã, bức tường ô nhục chia cắt Đông Tây sắp sụp đổ. Số đồng bào Việt Nam đi lao động hợp tác ở Đông Bá Linh rất đông, một số trèo tường qua Tây Bá Linh tìm tự do, họ kéo nhau đến ngôi Niệm Phật Đường Linh Thứu xin tá túc và xin chỉ dẫn cách làm giấy tờ để tỵ nạn.

Trước dữ kiện hằng ngày cả hàng chục người đến gõ cửa cầu cứu giữa trời mưa tuyết và cảnh tượng các cô gái trẻ trèo tường nhảy xuống té gãy xương hay trẹo chân nhan nhản mỗi ngày; ngôi Niệm Phật Đường Linh Thứu bắt buộc phải mở rộng cửa đón nhận tất cả mọi người. Đây mới là khó khăn cho những Phật tử sinh hoạt trong “Chùa“ nhất là bác Phạm Ngọc Đảnh người đã có công gầy dựng nên ngôi Niệm Phật Đường nhờ tài ngoại giao với chính quyền Đức (họ không cho thành lập chùa, chỉ cho sinh hoạt dưới hình thức một trung tâm văn hóa xã hội - Soziokulturelles Zentrum Viet Nam).

Bác Đảnh đã ép bà xếp ở hội Hồng Thập Tự, mở hết các kho đem ghế bố ra để ở văn phòng tại quận Steglitz cho những “Tường Nhân“, có chỗ dung thân chờ ngày vào trại tỵ nạn. Nhiều người Đức làm việc trong các công sở đã tích cực giúp đỡ cho khối người Việt ào ạt trào sang. Mỗi ngày trong Niệm Phật Đường phải tốn ít nhất cả chục thùng mì gói với một bình Gas vĩ đại mới đủ cung ứng cho những chiếc bao tử đói meo.

Đến nước này bác Đảnh phải cầu cứu trung ương ở chùa Viên Giác, kêu gọi các chi hội ở Hannover, Hamburg, Nürnberg gửi tiền và người qua phụ giúp chứ ở Berlin đã kiệt quệ mọi phần. Các em trong Gia Đình Phật Tử và Hướng Đạo ở Berlin tích cực xả thân đi giúp các đồng bào trong vấn đề giấy tờ phiên dịch. Có em phải bỏ học cả một lục cá nguyệt cho chiến dịch này. Phải nhắc đến một anh Hướng Đạo ở miệt dưới cách xa Berlin, vừa tốt nghiệp xong ngành nghề nhưng chưa có việc làm. Được trưng dụng lên Niệm Phật Đường, anh ở hà rầm luôn trong chùa để giúp đỡ các tường nhân. Tên của anh rất dễ nhớ và mang rất nhiều ấn tượng “Trần Thu Mộng Duyên“, chắc ba má anh mê con gái quá nên mới đặt tên như thế!

Tuy tiền không mang lại hạnh phúc, nhưng không có tiền làm sao trả cho sở Ngoại Kiều 7 Đức Mã để trả tiền chụp hình làm Passport. Bác Đảnh phải để cái lon ở trên bàn làm việc tại văn phòng để thu tiền phiên dịch không công cho đồng bào. Sau đó thiên hạ đã ổn định có tiền mới bỏ phong bì giúp đỡ lại người đã phiên dịch giấy tờ cho mình. Do đó có màn chú Từ Lương khui thùng phước sương, giơ cao phong bì đọc to “tiền dịch“, sau mỏi miệng quá chỉ đọc “dịch, dịch“ nghe như tiếng Vịt kêu chiều. Viết tới đây tôi không khỏi “tuyên dương“ cho công lao của Diệu Lý và Từ Lương, đôi uyên ương này đã xả thân cho ngôi Niệm Phật Đường Linh Thứu đến mờ mắt xụm cả lưng. Sẵn trớn tôi vinh danh luôn cho tất cả các Thuyền Nhân hay các đồng bào không cùng một giới tuyến đã góp công góp của lo cho Tường Nhân trong lúc gặp khó khăn, chẳng hạn như bác Diệu Thủy, cô Lâm Diệu Minh, bác Đạt Huệ cùng gia đình, dì Hoa, anh Thị Hiện, anh Thiện Sơn, gia đình bác Nguyên Hượt, bác Nguyên Định, Tâm Bích… và rất nhiều người nữa tôi không đủ giấy mực để viết ra cho hết.

Đấy chỉ là mặt tốt phía bên ngoài, nhưng có ai biết đến cái mặt trái của chiếc mề đay đâu! Bác Đảnh phải chịu bao sức ép của mọi phía đổ về, các bà già xưa trách sao chưa An Vị Phật đã rước chi người lạ vào Chùa, các ông cựu quân nhân đòi xin tí huyết về tội dám đón Cộng Sản vào nhà. Bác chỉ cười nói vu vơ:

- Ngày xưa có chương trình Chiêu Hồi phải hát bài “Tung cánh chim tìm về tổ ấm“ quá trời, bây giờ không gọi chỉ cần nhảy một cái là sang ngay. Tội nghiệp người ta bị đẻ ở đó chứ có phải là CS đâu!

Hoặc trấn an các bác lớn tuổi thích yên ổn tụng kinh:

Tụng kinh cho lắm mà thấy người sắp chết lạnh không đón vào thì tụng làm gì ?

Hay trả lời các bác sĩ trong bệnh viện, chữa trị không công cho những Tường Nhân té ngã chấn thương về tiền trả thông dịch:

Ông đã có công cứu đồng bào tui, tui cũng có phần dắt mối khỏi trả gì cho tui nữa hết!

Nếu có ai hỏi, thế số người chạy sang trong chiến dịch trèo tường này lên đến ước chừng bao nhiêu? Theo thống kê của cô giáo dạy toán trường Petrus Ký - Đạt Huệ tiết lộ, cỡ 2000 người một con số không nhỏ cho Niệm Phật Đường Linh Thứu bé nhỏ ở quận Tiergarten. Ngày nay số người thành công trở thành đại gia lên rất cao, tôi không nắm rõ từng chi tiết chỉ nghe loáng thoáng, láo nháo như cháo với chè là một trong số mười người đầu tiên đến gõ cửa “Chùa“ xin tỵ nạn là “Mr. Hai“, mới ngày nào còn là anh Trần văn Hai trẻ măng ốm nhách đen thui và nghèo sơ xác, bây giờ đã trở thành đại gia một doanh nhân tỏa sáng trong giới ẩm thực.

Những người không thuộc diện tường nhân thành công là “Monsieur Vương“, anh Đạt với dáng vóc nhỏ nhắn nhưng có cái đầu nghĩ chuyện kinh doanh, sờ vào đâu là ra tiền đến đó. Ngoài ra trong lãnh vực đầu tư hãng xưởng rất thành công phải kể đến anh Kiệt hãng Recart hay chị Hảo hãng Abitz. Xin thứ lỗi cho tôi chỉ biết lên Chùa và ru rú trong nhà không chịu giao thiệp nên thiếu sót rất nhiều đại gia chưa kể đến. Hay là đến ngày Hội Ngộ và Tri Ân mùng 3 tháng 9 năm 2011, mời các đại gia đến trình diện cho bà con được chiêm ngưỡng những nhân tài của đất nước.

Cái phước đức lớn nhất của ngôi chùa Linh Thứu là đã đào tạo được rất nhiều vị đi xuất gia, tính đến hôm nay cũng được 16 vị đi ra từ chùa Linh Thứu, có người tu hành tinh tấn đã đạt được những quả vị cao.

Tôi xin được lướt qua theo thứ tự thời gian đi Tu của từng vị:

  • Sư Cô Như Quang, hiện đang trụ trì chùa Phổ Hiền ở Strassburg. Cô là tường nhân trong nhóm đầu tiên đến Niệm Phật Đường Linh Thứu, lúc còn ở bên Đông Đức, Cô đã ăn chay trường và chép Kinh Pháp Hoa bằng tay trong cuốn vở học trò. Lúc Cô tỏ ý định muốn đi Tu, ai cũng tiếc tại sao một người đẹp như thế mà đòi xuất gia. Nhưng bác Đảnh đã tạo điều kiện cho Cô xuống Chùa Viên Giác để xuất gia và sau sang Pháp với Sư Bà Như Tuấn.

 

  • Cô Phúc Nghiêm, khoảng vài năm sau khi mở cửa bức tường Cô đến Chùa đòi xuất gia, bác Đảnh phải đưa lậu qua Làng Mai bằng thông hành của con gái. Hiện nay Cô tu hành rất tinh tấn, một Sư Chị dũng cảm quyết ở lại Bát Nhã để bảo vệ các Sư Em.

 

  • Thầy Pháp Độ, một tường nhân chính hiệu để tóc dài quá vai lại thêm râu ria rậm rạp, làm đầu bếp chính cho quán cơm chay của Vĩnh Trân. Ngày Thầy đòi đi Tu ai cũng giật mình, nhưng không ngờ ngày nay Thầy tu hành quá tinh tấn, được Sư Ông bổ nhiệm cho nhiều chức làm xếp ở Thiền Đường Paris.

 

  • Cô Hóa Nghiêm, khoảng năm 2000 tôi được tháp tùng Cô cùng với bác Đảnh sang Làng Mai cho Cô đi xuất gia. Từ đó đến giờ đã gần 11 năm, chắc Cô đã lựa đúng con đường, vì đường đời của Cô quá lắm chông gai, không ai có thể gánh vác cho Cô được.

 

  • Thầy Pháp Chương, lúc chưa đi Tu được mệnh danh là Đại Thí Chủ, vì Thầy hay ủng hộ cho những lúc Niệm Phật Đường còn nghèo, lâu lâu lại cho gạo hay ủng hộ tiền xe cho mọi người đi dự khóa tu bên Làng. Nghe đâu Thầy tu hành rất tinh tấn được Sư Ông tặng cho nhiều quả vị.

 

  • Thầy Trinkley, bây giờ Chú đã lên chức Thầy đạt được nhiều quả vị theo trường phái Tây Tạng. Ngày xưa ông cụ của Chú rất buồn khi cậu con trai nối dõi tông đường đi Tu, ổng cứ đòi từ con và trách bác Đảnh đã dụ dỗ con trai ông đi Tu, bác Đảnh trả lời kiểu Ông già Ba Tri:

Tui dụ tui, dụ con tui còn không được nữa dụ con ai!

Đó là các Thầy Cô tu theo pháp môn Làng Mai với Sư Ông Nhất Hạnh, lực lượng hùng hậu còn lại tu theo pháp môn Tịnh Độ của Sư Ông Viên Giác và trong tương lai biết đâu còn nhiều Vị xuất thân từ chùa Linh Thứu đi xuất gia.

Một ngôi chùa đã được tạo dựng lên bằng những công đức to dầy như thế, một đội ngũ Phật tử thuần thành đã thấm nhuần tương chao, cộng thêm sự hướng dẫn tinh thần một cách tài tình của Ni Sư trụ trì, cùng các đóng góp vô cùng tận của các Sư Cô. Ngôi chùa thiêng Linh Thứu chắc chắn sẽ tồn tại mãi trên xứ sở Đức thân yêu.

Để kỷ niệm ngày Hội Ngộ và Tri Ân mùng 3 tháng 9 năm 2011.

Hoa Lan.




Thay Phap Chuong
Thầy Pháp Chương

Su Co Nhu Quang

Sư Cô Như Quang đang làm thị giả cho Sư Bà Như Tuấn


ThayDanh_2Bác Đảnh


DatHueBác Đạt Huệ




Chua Linh Thuu (3)

Xem thêm hình ảnh Chùa Linh Thứu

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2010(Xem: 2084)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 3316)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2657)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2816)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2172)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2035)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1859)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2250)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1705)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3286)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567