Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 5. Cái tu trong xã hội tân tiến

18/07/201509:39(Xem: 1782)
Chương 5. Cái tu trong xã hội tân tiến
TỰ TRUYỆN MỘT NGƯỜI TU 
Thích Hạnh Nguyện 

Nhà xuất bản Hồng Đức 2015
CHƯƠNG 5
CÁI TU TRONG XÃ HỘI TÂN TIẾN

Xã hội ngày nay đối với tôi dường như là cuộc lễ mừng tất cả mọi thứ gì dẫn ta đi xa sự thật, làm cho người ta khó mà sống với chân lý, nó lại còn không muốn cho người ta tin rằng có chân lý hiện hữu. Tất cả những điều này thoát thai từ một nền văn minh tự cho là tôn thờ sự sống nhưng kỳ thực đã tước hết nghĩa đích thực của sự sống. Một nền văn minh luôn luôn nói là làm cho người ta hạnh phúc, mà kỳ thực đã làm bê tắc con đường dẫn đến suối nguồn của hạnh phúc chân thực. Soyal Rinpoche  

Có thể nói rằng tôi chưa bao giờ nếm phải mùi khổ cực trong đời sống tu hành hàng ngày, vì tôi là một người xuất gia trong thế giới có một đời sống giàu sang về vật chất. Chỉ nội bao nhiêu đó thôi cũng đủ  làm tôi cảm thấy mình có được hạnh phúc trong đời sống tu hành. Hạnh phúc là gì nếu không phải là sự an lạc trong tâm hồn của một nhận thức biết đủ, sung sướng cảm nhận những điều mà mình đang hưởng. Tôi gkhông biết đó là cái may hay điều chẳng may cho mình mà chỉ biết rằng tu như vậy thì có vẻ khác thường lắm. Người ta thường cho rằng tu là phải khổ hạnh, chịu nhiều cực khổ thì mới gọi là tu, chớ sao tu mà lại còn có vẻ sướng hơn cả người đời nữa. Đó có thể là nhận định của một số người, nhưng đâu phải ai tu rồi cũng được sướng hoặc ai tu chắc rồi cũng sẽ khổ. Tu sướng hoặc tu khổ cũng tùy theo phước duyên của mỗi người. Ở Việt Nam đã không biết bao nhiêu người tu hành mà họ vẫn phải chịu nhiều cực khổ đó sao? Nhưng cũng trong cái cảnh khổ ấy, có nhiều vị cũng  chẳng gặp khổ. Ở hải ngoại này trong môi trường thật sung sướng, mà cũng có nhiều thầy cô chịu khổ đó sao. Thế nên có khi mình muốn tu sướng một chút cũng không  được và cũng có khi mình muốn tu khổ một chút cũng chẳng xong; tôi không tin thuyết định mạng, nhưng cũng có lúc nghĩ rằng cuộc đời của ai đó đều dường như đã được an bài. Được xuất gia ở hải ngoại, tu hành ở hải ngoại là tôi thấy mình đã được tất cả rồi. Chằng những riêng tôi mà tôi tin rằng ai sống và tu ở hải ngoại cũng là những người đã có được tất cả. Có được tất cả chính là có được hai mặt của một đời sống, vật chất và tinh thần. Nhưng nếu không hiểu và ý thức được để chạy đuổi theo bên này mà bỏ quên bên kia, hưởng được phần kia mà không hưởng phần này thì quả là thiếu sót và đáng tiếc vô cùng. Hiểu và biết sống, biết bỏ rơi những cái đáng bỏ và biết cầu tìm những điều đáng tìm, thì chắc chắn con người sẽ nhận ra được nhiều hương hoa trong cuộc đời. Người biết tìm thấy hương hoa và ý vị của cuộc đời chính là người biết sống nhất.

Kể từ khi tôi học được cách sống theo quan niệm của Phật giáo, tôi thấy đời tôi có nhiều đổi thay từ nhận thức về cuộc sống, tư tưởng suy nghĩ cho đến hình hài bên ngoài, hình hài của một người tu. Đời sống vật chất giờ đây đối với tôi không còn là một đam mê tuyệt vời như ngày nào, mà giờ đây mỗi lần nhìn nó tôi lại có dịp thẩm xét và đặt lại vấn đề giá trị của nó. Tôi thấy nó không có được sự toàn vẹn và ý nghĩa như xưa kia. Khi thật tâm đi sâu vào chuyện tu học, tôi lại càng nghi ngờ hơn về đời sống vật chất mà tôi đang hưởng. Ngoài mặt thì đời sống vật chất cho sự thoải mái, tiện nghi và sung sướng nhưng bên trong, dường như nó cũng phản tác dụng cho đời sống tu học tâm linh của mỗi người. Tôi chợt nhận ra rằng, cứ không phải các nhu yếu vật chất đầy đủ  sự tiện nghi và dễ dàng hơn cho một đời sống, thì ta lại cứ đi tu và tiến nhanh trên con đường đạo. Điều đó có thể đúng trên khái niệm, nhưng thực chất thì cái tiện nghi của một xã hội vật chất Tây phương cống hiến, đã làm mình chậm lại trên con đường tu thì phải. Có lẽ một phần của những tiện nghi vật chất tạo tiện lợi cho ta, thì nó kéo theo phần rắc rối thêm chuyện cho mình. Có điện thoại trong chùa thấy là tiện lợi, nhưng cũng chính nó lại làm mất thì giờ tu học, khi nói chuyện liên lạc nọ kia. Một chiếc xe hơi ra vẻ cho mình sự tiện lợi trong việc đi lại, nhưng lại làm mất thời giờ trong việc đưa đón, chở này nọ, sửa sang, giấy tờ bảo hiểm; rồi từng thứ điện, nước, lò sưởi, báo chí, tem thư, giấy tờ, biên lai, mua sắm.v.v... Nhất nhất cái gì trông cũng có vẻ tiện và lợi, nhưng trong cái tiện và lợi ấy ta tự nhiên thấy tốn thêm rất nhiều thời gian, tiền bạc phí tổn khác để rồi khi nhìn lại trong một ngày, ta chẳng còn thời gian dành lại sự tu tập. Nhưng đã sống trong môi trường tiện nghi của một xã hội phương Tây, thì ta không thể tránh được những điều này.

Từ chuyện đi mua sắm thấy có vẻ dễ và tiện, nhưng lại thường là tốn rất nhiều thời gian hơn hết, có lẽ vì tính đa dạng của nó. Vào một siêu thị để mua đồ, một chai xà phòng tắm chẳng hạn, nếu không ý thức và biết cách mua, ta có thể mất tới hàng giờ để đi tới đi lui, ngắm nghía lựa chọn, trước cả gần một trăm loại xà phòng khác nhau. Nhỏ từ cái bót đánh răng cho đến lớn như cái máy hút bụi, máy giặt v.v... hàng mấy mươi loại cho mỗi mặt hàng đã làm ta loanh quanh lẩn quẩn với nó suốt ngày. Nhưng rồi trong cái tiện nghi và đầy đủ đó, người muốn tu sẽ có được những lợi ích gì trong việc thăng hóa tâm linh, gạn lọc tâm lý? Đời sống tiện nghi, đầy đủ và đẹp đẽ này có làm cho ta trở nên bớt chấp thủ, bớt tham lam và làm cho ta tăng trưởng thêm sự nhàm chán đối với cõi luân hồi này, để cầu giải thoát hay không? Có lẽ trong một môi trường sống như vậy khó mà đòi hỏi có được cả hai mặt tốt đẹp trong sự tu tập lẫn đầy đủ tiện nghi cho đời sống. Thế nên tôi có cảm tưởng rằng sống trong một xã hội vật chất Tây phương như vậy, một mặt nó cho tôi sự thoải mái và tiện nghi tối bề, nhưng một mặt nó cũng vây bủa rất nhiều chuyện phiền toái, khó mà có lối thoát.

Lần đầu tiên đi Mỹ, tôi ngạc nhiên hết sức vì những cái văn minh khác lạ của xứ này; đem so với những cái văn minh và tiến bộ của những xứ Âu châu mà trong đó tôi đang sống thật chẳng thấm vào đâu. Có lẽ vậy nên những người ở Mỹ đi đâu cũng thường hay tự hào về cái văn minh và tiến bộ của xứ họ. Hồi tôi chưa biết và chưa được đi đến Mỹ, tôi vẫn hay cứ cãi về chuyện này với những đứa bạn vì tính tự hào dân tộc; đối với tôi lúc ấy Đan Mạch là nhất, Âu châu là nhất dù thật sự dân tộc tôi chẳng phải là dân tộc Đan Mạch, là Âu châu và nước tôi cũng chẳng phải là những nước này. Tuy nhiên ai sống trong một nước nào đó mà chẳng tự hào và bênh vực cho nước mình; tôi cũng chẳng ra ngoài lẽ ấy. Nay được đi rồi tôi mới thấy sao hồi đó mình thiển cận và cố chấp quá mức.

Mặc dù là một người được đi rất nhiều khắp cả châu Âu, cái thấy của tôi cũng rộng lắm nhưng tôi cũng không khỏi tròn xoe mắt lên nhìn khi thấy nhiều cái là lạ hay hay, của một sự tiến bộ về mặt vật chất và tiện nghi của xứ cờ hoa này. Một lần nọ khi đi với người quen ra phố, tôi ngồi vào xe, dù cửa chưa đóng nhưng theo thói quen thường lệ tôi đã tìm cách cài dây an toàn, loanh quanh tìm không thấy chỗ cũ ngay góc phải phía sau yên ghế tôi, mà thấy nó nằm trước mắt gần chiếc kính chiếu hậu, tôi lay hoay giựt lấy nó để choàng qua mình. Anh bạn phật tử thấy vậy cười xòa và nói đây là loại dây cài tự động, cứ đóng cửa lại là dây tự động cài vào người. Tôi bẽn lẽn làm theo lời anh và nói vài câu bâng quơ cho đỡ quê ở Âu châu mà còn quê đến mức đó thì đành chịu. Rồi khi về nhà, ở trong nhà anh đôi ba ngày tôi mới phát giác ra thêm nhiều cái là lạ khác nữa như: tủ lạnh làm đá và cho chảy ra ly, cái bồn rửa chén có cái máy xay bên dưới, nên khỏi cần phải móc rác và đồ thừa ra mỗi khi rửa chén xong.v.v... Vào buổi tối khi xem TV tôi thấy cái TV nhà anh có cái màn ảnh vĩ đại như một cái màn ảnh xine loại nhỏ trong nhà. Đời sống anh có vê đầy đủ, tiện nghi và cao sang quá. Những ngày sau đó, có dịp đi thăm nhà một số phật tử khác, tôi thấy ai ai cũng có một đời sống vật chất tiện nghi na ná giống nhau. Thì ra ở xứ Hoa Kỳ này, cái hưởng thụ và tiện nghi cao thật. Quả là sung sướng và đáng thán phục. 

Dường như tất cả các nền văn minh vật chất chính là nền văn minh hưởng thụ, và tìm cách tập trung cái hưởng thụ đó vào nơi chính mỗi con người trong cái thế giới này. Vật chất và tiện nghi làm cho con người thoải mái hơn thì có, nhưng để hưởng thụ được cái thoải mái đó, con người ta cũng phải trả giá thật đắt không kém với cái giá trị của nó. Đức Dalai Lama có kể lại rằng, có một lần nọ ngài sống trong nhà của một gia đình giàu có ở tại Hoa Kỳ, khi vào nhà vệ sinh ngài đã thấy nhiều chai thuốc ngủ trên kệ. Vậy thì đâu là sự thoải mái và an lạc của cái giàu sang, khi còn phải nhờ vào những viên thuốc ngủ để dỗ giấc qua đêm? Thế nên không hẳn là tôi tin tưởng và lạc quan về đời sống sung sướng ở những xã hội âu tây. Sung sướng hơn cũng có mà bên cạnh buồn khổ nhiều hơn cũng có. Cuộc đời này dường như cái gì cũng phải đi hàng hai như vậy thì mới đúng cái nghĩa nhị nguyên của nó, cái này có thì cái kia phải có của cuộc đời. Ở những xứ sở giàu có, người ta xem chừng như có tất cả, nhưng người ta cũng phải làm tất cả để có được những cái đó. Một công việc (job) không đủ, nên có khi phải hai phải ba job. Ngày làm tám tiếng chưa xong, nên phải làm mười, mười hai tiếng và cứ như vậy quần quật quanh cả năm, nên con cái sớm tối chẳng thấy mặt, người thân trong gia đình chẳng mấy lúc gặp nhau. Con người và tình cảm cá nhân bỗng nhiên hóa thành lạnh lùng và xa cách, vì phần lớn thời gian và cuộc đời con người sống trong những xã hội này, chỉ dùng toàn bộ vào công ăn chuyện làm, để kiếm tiền. Vậy thì hưởng một đời sống tiện nghi đầy đủ như vậy, chỉ là kết quả của những khó khăn cực nhọc thêm mà con người đã cố công tạo ra. Ở đây tôi bỗng liên tưởng đến những xứ nghèo và người dân xứ này. Họ thiếu thốn hơn nên đời sống họ cũng đỡ bận rộn hơn, để rồi ngoài thời gian làm việc ra họ cũng còn nhiều thời giờ khác lo cho gia đình, con cái và sống một đời sống tâm linh.

Thế nên tôi luôn luôn đặt câu hỏi rằng, liệu đời sống vật chất những xã hội Tây phương có làm cho con người được sung sướng hơn, hạnh phúc hơn hay không? Liệu sự nhận thức này có mang một ý nghĩa tuyệt đối hay không, hay chỉ là một sự nhận định cá nhân, của một số người. Nếu đời sống vật chất thật sự mang lại cho con người hạnh phúc thì không lẽ chỉ những người trong những xứ giàu có như Hoa Kỳ và Âu châu mới có hạnh phúc, còn những người nghèo ở Á châu thì không có hạnh phúc sao? Điều ấy chưa hẳn đúng vì hạnh phúc là đến tự tâm hồn của chính con người ấy, và chẳng có tiện nghi hay vật chất nào có thể thay thế được nó. Có thể nếu người ta hiểu rằng tiện nghi của vật chất tạo ra sự thoải mái, và biết cảm nhận cái thoải mái mà mình đang hưởng đây, hạnh phúc được sinh ra. Nhưng khổ nổi ít ai cảm nhận được điều này, mà họ cứ chạy và đuổi theo cơn khát của tiện nghi vật chất, đến độ chẳng còn chút thời gian hay ý thức để cảm nhận cái thoải mái ấy nữa. Tôi biết điều này vì tôi đã từng là nạn nhân của tiện nghi vật chất. Nói đến tiện nghi vật chất là nói đến cái không cùng của nó, vì nó cũng là sản phẩm của cái đầu óc không cùng của con người. Trong thời đại mà tiền bạc và vật chất tạo nên giá trị của con người, thì tiện nghi vật chất đó được phát triển và chế ngự khắp mọi nơi, đôi khi tôi thấy nó phát triển đến mức quá đà: nhưng người ta thích vậy thì biết sao! 

Thời đại ngày nay là thời đại của tiện nghi máy móc, cái gì cũng bằng  máy, cái gì cũng bấm nút. Cài dây an toàn trên xe cũng bằng máy, đổ rác cũng bấm nút, nếu một người nào muốn sử dụng hoàn toàn máy và nút để có tiện nghi tuyệt đối cho mình và gia đình, thì có lẽ đồ đạc với máy và nút phải chất đầy cả một nhà, dù rằng các loại máy nút ấy đã đựợc chế tạo nhỏ gọn một cách tối đa. Từ cái máy vắt cam, đánh trứng, nấu trứng, đấm bóp chân, tay cổ, máy nấu, máy nướng, máy xay, máy giã, máy giặt, máy ủi, máy sấy. Ôi, toàn những thứ là máy với nút. Từ những máy cho gia đình cho đến máy hưởng thụ cho mắt, cho tai với bao nhiêu là loại lớn nhỏ TV, điện toán, Video, máy dàn.v.v.... Những thứ ấy cứ sau một vài tháng lại ra những kiểu máy mới, tinh vi hơn và đẹp đẽ tân kỳ hơn. Ngày nay người ta không còn nghe những âm thanh thường nữa mà phải nghe những âm thanh nổi, ba chiều; không còn xem những TV màu nhỏ nữa mà phải xem TV đại vĩ tuyến như xine trong nhà. Tất cả những cảm thọ cho mắt, cho tai, mũi, miệng và thân được tăng cường và phát triển đến mức tối đa. Và trong cái tối đa tột cùng của sự hưởng thụ ấy, mức độ hạnh phúc đạt đến cỡ nào?

Thật ra tôi cũng chẳng thấy có điều chi chống trái trong việc hưởng thụ những tiện nghi vật chất và sự tu hành; có điều nếu ta biết cách thì tiện nghi vật chất ấy có thể là một người đầy tớ tốt cho ta, còn không ta sẽ là một người đầy tớ tốt cho nó và dần dần ta sẽ trở thành một người máy, chiếc máy như nó, có khác hơn là người máy ta biết cách suy nghĩ làm việc và kiếm tiền. Tiện nghi của vật chất vốn không xấu mà cũng chẳng tốt, nhưng tùy vào cách mà người xử dụng nó mà thôi. Như chuyện con dao nếu biết đem cắt rau, cắt đậu hủ để nấu ăn chay sẽ ngon lắm chớ, nhưng không biết mà dùng để đâm người thì thật là điều tệ hại cái tiện nghi của máy giặt là cho ta một giờ đồng hồ rảnh rang, nếu ta biết dùng một giờ đồng hồ ấy để tụng kinh, niệm Phật thì tiện nghi như vậy có ích lắm chứ.

Nhưng không biết lại dùng một giờ rảnh ấy để tán gẫu, đánh bài, xem phim thì một giờ rảnh dư ra đó chỉ có hại, tạo thêm nghiệp mà thôi. Nếu không có máy giặt, không dư ra một giờ để ta phải giặt bằng tay có lẽ sẽ thêm phần ích lợi cho sự vận động cơ thể, và tâm ý thảnh thơi lúc đó. 

Tôi thường suy gẫm về những chuyện tiện nghi vật chất áp dụng cho chuyện tu hành, và lấy nó làm điều thú vị khi tính toán so đo về cái hại, cái lợi, thời gian được, mất và những kết quả của nó. Thời gian năm giây cài dây an toàn tự động của xe thay vì bằng tay mình có thể niệm thêm 3 câu niệm Phật, giặt đồ bằng máy thay vì bằng tay mình có thêm một hay nửa giờ tụng kinh. Nấu cơm bằng nồi điện, thay vì chụm củi mình cũng có thêm nửa giờ niệm Phật, đi xe thay vì đi bộ mình có thêm một giờ, hoặc hai giờ, ba giờ niệm Phật hoặc an trú trong chánh niệm. 
 
Tất cả tiện nghi tốt lắm vì nó cho ta thời gian rảnh rất nhiều để tu niệm, nếu mình biết cách dùng; còn không thì những thời gian rảnh ấy chỉ là thời gian để tạo thêm nghiệp, thời gian để ta đưa vào thêm, vây bủa thêm cho mình bao nhiêu công việc vô nghĩa khác trong cuộc đời; các công việc ấy dường như là rất trọng đại trong đời ta, nhưng chẳng ích gì một khi nhắm mắt ra đi. Tất cả những gì ý nghĩa, quan trọng nhất đối với chúng ta hiện giờ đều buộc phải bỏ lại. Ta ra đi một mình mà không mang theo hành trang nào; chỉ có cô đơn, sợ hãi và bao nhiêu là nghiệp ác đang chờ đón ta tại bên kia đường hầm.

Thấy rõ những mối nguy hại của con người khi họ phải sống, đương đầu với đời sống vật chất đầy đủ, nhưng lại bị phá sản về đời sống tâm linh, các bậc thấy đã không ngừng giảng dạy và khuyến cáo đến những con người có niềm tin, biết hướng mình vào đời sống đạo hạnh. Ai biết nghe và chịu sửa mình, là người ấy biết cách sống có ý nghĩa và biết cách tạo hạnh phúc cho họ và gia đình, ngay trong đời sống này và mai sau; ai không nghe thì khổ đau khó tránh được vì họ chưa từng biết cách tránh, dù chính họ đã trang bị cho họ một đời sống giàu sang và đầy đủ nhất trong cuộc đời. Ngài Sogyal Rinpoche nhắn nhủ trong tập sách của ngài, "The Tibetan book of living and dying: "Việc đi theo con đường tâm linh chưa bao giờ lại cấp thiết và gay go hơn bây giờ. Xã hội chúng ta dành quá nhiều cho sự tôn vinh bản ngã, tôn vinh chính những sức mạnh của tham lam và vô minh đang tàn phá quả địa cầu này. Chưa bao giờ khó hơn để nghe tiếng nói của chân lý, và chưa bao giờ khó hơn để tuân theo tiếng nói ấy nếu nó được nghe đến. Bởi vì trong thế giới quanh ta không có cái gì hỗ trợ cho sự chọn lựa của ta, cái xã hội ta đang sống dường như phủ nhận tất cả mọi ý nghĩa thiêng liêng, vĩnh cửu. Bởi vậy vào thời gian nguy ngập nhất của chúng ta khi chính tương lai chúng ta cũng thật khả nghi, thì chúng ta những con người lại thấy mình đang ở giai đoạn hoang mang nhất, và bị vướng vào một cơn ác mộng do chính chúng ta tạo nên".

Phần lớn con người ngày nay sống rất vô tư và lãnh đạm với những mặt trái và khổ đau của xã hội bên ngoài. Họ không cần biết ngày mai, kiếp sau vì những thứ ấy nào có ý nghĩa gì với họ và họ chỉ biết hiện tại, biết họ và những cái mà họ có thể tóm bắt được cho chính họ và gia đình họ. Đối với họ, cuộc đời này là sung sướng, có gì đâu phải lo nghĩ xa xôi. Sanh là khổ ư! Sanh đã qua rồi, già là khổ ư! Già chưa đến, bệnh là khổ ư, họ còn đang mạnh và quá khỏe. Hãy vui chơi và hưởng thụ được gì có thể hưởng thụ trong lúc này. Tôi cũng có một cô em gái và khi nói chuyện cô cũng có những nhận định na ná như vậy. Đó là cách nhìn của một người chỉ biết có đời sống may mắn của chính họ mà họ đang hưởng, nên suy ra cuộc đời là đẹp, vui tươi và sung sướng như là họ đang sống. Cả vũ trụ, thế giới này được họ gói trọn lại trong ngôi nhà đầy đủ tiện nghi của họ, trong con người xinh đẹp, khỏe mạnh và trẻ trung của họ và trong thời gian vui vẻ của cuộc nói chuyện.

Nhưng đáng tiếc thay là cả vũ trụ, thế giới và cuộc đời này đang trôi chảy theo chiều biến diệt và hủy hoại. Cái già tàn phá cái trẻ, cái hư hoại tàn phá cái nguyên sơ, cái chia ly tang thương của cuộc sống tàn phá cái êm đềm hạnh phúc bên nhau, cái bệnh tật, thương tích tàn phá cái khỏe mạnh của con người.

Tất cả những thứ ấy là thực tại của đời sống và nó có mặt đầy rẫy khắp mọi nơi, bởi vì ta không thấy hoặc chưa thấy nên cứ tưởng nó xa lạ và không có đối với mình. Cứ vào thử nhà thương đi rồi sẽ thấy, cứ sang những nước thứ ba như Phi châu, Ấn Độ rồi sẽ thấy; cái khổ của kiếp người và cái bất toàn của cuộc đời sẽ cho ta một cái nhìn toàn diện hơn về con người và thế giới mà con người đang sống. Chúng ta sẽ thấy chúng ta và cái mà chúng ta đang hưởng được đều là do phước báu mà có còn tự chúng ta thì chẳng nghĩa lý gì với cái khổ đau của cuộc đời và với muôn tỷ người xung quanh. Nếu không do phước báu thì chắc gì chúng ta đã đến được bến bờ tự do năm nào, thay vì phải chịu chìm sâu vào lòng biển cả; để rồi ngày nay chúng ta có tất cả, từ nhà lầu xe hơi đến tiền bạc triệu triệu trong tay. Chúng ta cũng chẳng có gì đáng phải tự hào vì chúng ta giàu có, và người kia nghèo hèn; một trận động đất xảy ra, một vụ cướp, một vụ hỏa hoạn là chúng ta trắng tay và điều đó có thể sẽ xảy ra tối nay, ngày mai hoặc tháng tới, ta chẳng thể biết được. Chúng ta chẳng thể cao ngạo vì mình đang trẻ trung xinh đẹp và mạnh khỏe, còn những cái già nua xấu xí và bệnh tật kia là của người, của ông ngoại, bà nội hoặc cha mẹ mình mà thôi. Rồi sẽ đến lượt mình và đến rất mau. Bệnh tật có thể đổ ập lên mình sau một tai nạn xe hơi, một trở chứng bất thường trong cơ thể và mình sẽ sống trong đau đớn, oằn oại và có thể bị người sợ hãi xa lánh.

Nhưng xin đừng sợ hãi tất cả những điều này vì ta có sợ hãi cũng chẳng thể tránh né được chúng; bởi vì chúng là sự thật của cuộc đời. Chắc chắn sự thật không phải nằm ở nơi nhà lầu sang trọng, xe hơi mới kẻng, tiền bạc hàng triệu usd trong ngân hàng, con cái chồng vợ, cha mẹ thương yêu sống êm đềm hạnh phúc bên nhau, mà sự thật của cuộc đời nằm ở nơi bất toàn của nó, nằm ở nơi chia lìa, khóc than buồn khổ, đói rách, bệnh tật, tai nạn, già nua, xấu xí thất bại, chết chóc.v.v... Biết được những sự thật này và làm quen với nó, chính là người biết nhìn và hiểu rõ cuộc đời, còn nếu nhìn và nhận định về cuộc đời qua lăng kính màu hồng, thì con người ấy sẽ bị đau khổ mãi mãi, trong đời này và nhiều kiếp sống về sau. Tôi tin những điều tôi viết đây là sự thật vì tôi viết qua kinh nghiệm của chính bản thân mình; đây cũng là điều mà đức Phật; các bậc đệ tử của Ngài truyền lại cho chúng ta qua kinh điển và các lời dạy của Ngài: Hiểu và tin được điều này là cuộc đời ta đã có thêm được ý nghĩa, bớt khổ đi nhiều lắm rồi. 
Kể từ khi tôi có dịp đi sang những nước nghèo, tâm tôi mới có dịp mở rộng ra thêm và tôi mới có thể nói rằng  mình đã thật sự học được cách nhìn cuộc đời. Biết cách nhìn cuộc đời là biết cái bất toàn của cuộc đời, mà trong đó chúng ta những con người vô minh đang sống. Tôi, các bạn chúng ta đã sống qua biết bao nhiêu cuộc đời rồi, trải qua hàng bao nhiêu mạng sống rồi, mà ta vẫn vô tư với những nổi khổ đau của đồng loại, vẫn bám víu và chấp thủ vào mình và cho riêng mình mà chưa một lần muốn mở ra, trải rộng ra chia sớt với người. Trong ý thức ấy tôi thấy mình nghèo là phải, khổ đau là phải và luân hồi trầm luân cũng là điều hợp lý. Xin đức Phật từ bi ban cho con từ tuệ để con nhìn thâu suốt cuộc đời, để chia sẻ nhung nỗi  đau khổ của người và tìm cách giúp họ. Có trí tuệ cũng là để  cho con thật sự có được niềm sợ hãi từ đáy lòng về cõi luân hồi này mà tìm cách thoát ly.

Nhưng tôi biết cái tu của tôi trong một xã hội quá ư là tiện nghi vật chất sẽ chẳng đưa tôi đi đến đâu, vì tôi quá mềm yếu trước những cám dỗ thời đại. Tôi rất mềm lòng trước những sự đấu tranh dằng co nội tâm, giữa một đời sống muốn tu hành thánh thiện gạt bỏ tất cả, và một đời sống muốn tu và cũng muốn hưởng thụ. Bằng chứng tôi là một người mê xem phim ghê gớm, nên đã hai lần lấy cớ coi tin tức mà mua TV. Lần đầu tôi mua một cái TV 14 inch và lòng dặn lòng là chỉ được coi tin tức mà thôi, chứ không được xem phim để mất thời gian. Tôi nghiêm chỉnh chấp hành cái luật lệ do tôi đề ra đâu được chừng một tháng, và sau đó bất đầu tò mò xem các chương trình buổi tối coi có những gì, rồi lần lần đi đến xem một đoạn phim hay, và cuối cùng tôi không tránh được cám dỗ là đã xem nhiều phim trong một ngày. Biết mình đã quá sa đà, tôi bực mình lắm, vì chính mình không thắng được mình; tôi bèn quyết định bán rẻ cái TV ấy cho một người bạn. Bẵng đi một năm sau, ý muốn coi phim và tin tức lại dụ dỗ tôi và lần này tôi khá thận trọng hơn, nên mua một cái TV để bàn trắng đen thật nhỏ, (một phần cũng là dễ cất dấu để phật tử đến khỏi trông thấy). Tôi coi tin tức đâu một thời gian rồi cũng bị sức quyến rũ mê hoặc nào đó của cái bệnh ghiền phim, tôi lại len lén cho phép mình xem đôi chút, rồi xem nguyên cả tập phim và hai phim. Thế rồi tôi lại nhận thấy mình thua cuộc trước những cám dỗ phim ảnh và lần này tôi tức mình đem TV cho một người bạn, để bỏ ghét lấy chính tôi. Thôi thế là đủ rồi và kể từ thời gian đó ở Đan Mạch tôi đã không bao giờ mua TV nữa. Chuyện mê xem phim và TV là một chuyện nhỏ trong những chuyện mà tôi phải đối mặt với cuộc sống đầy vật chất quyến rũ ở một cái xã hội phương Tây.

Thầy tôi thường hay răn nhắc tôi rằng: thọ dụng của đàn na tín thí thì phải khéo mà biết đáp trả bằng sự tu học nghiêm trì giới luật với chính mình. Không khéo thì kiếp sau mang lông đội sừng để mà trả nợ. "Dù là một đệ tử dở tệ của thầy đến đâu, tôi cũng ý thức được điều này lắm nên cố gắng tu học, dù rằng chung quanh tôi chẳng ai biết, ai hay tôi có tu hay không tu. Dĩ nhiên tu hành nơi tôi hay nơi bạn phải là một việc làm ý thức nơi mỗi người chúng ta, vì chính chúng ta là kẻ tình nguyện đến với đạo và tu tập kia mà; chẳng có ai ép buộc hoặc thúc mình, mà mình ý thức biết được việc tu và học đạo này chính là hành trang tâm linh cho đời sống an lạc hạnh phúc của mình trong hiện tại và mai sau. Thế nên đừng tự dễ dãi và tha thứ với những việc làm dối trá của mình. Tôi lấy làm hổ thẹn với mình mỗi khi bị thua một cuộc đấu tranh dằng co nào đó nơi mình, và sau đó tìm cách thoát khỏi. Nhưng quả thật, tu học và hành trì ở những xứ Tây phương khó quá! Trước khi đến hồi chung cuộc về sự thất bại và sự sám hối ăn năn của mình, là những sự đấu tranh dằng dai này có khi cả tháng, cả năm và đôi khi làm tôi ăn ngủ không yên vì mặc cảm tội lỗi.

Một đời sống tu hành thanh tịnh phải là một đời sống biết hy sinh, gạt bỏ danh lợi và vật chất và chỉ biết ẩn nhẫn tu hành trong cô đơn vắng lặng. Tôi vẫn chưa thể làm được khi đang còn sống trong xã hội vật chất Đan Mạch, tôi chưa thể ngồi yên chú tâm tụng kinh, niệm Phật mà sau lưng những cám dỗ đang mời mọc réo gọi. Bởi thế tôi muốn ra đi cho rồi.

Ra đi chưa được vì duyên giấy tờ và học hành chưa xong, tôi cố gắng tạo cho mình một nhu cầu tu học thật tốt, thế nhưng dù cố gắng cách mấy tôi cũng thấy như có gì đó bế tắc. Kinh sách tôi có thật nhiều, có lẽ không có một chú tiểu nào ở Việt Nam mà có nhiều kinh sách như tôi có.

Một thư viện nho nhỏ vài trăm cuốn do thầy tôi cho, khi biết tôi ham đọc sách và đời về Đan Mạch để tu. Tôi mua tủ, mua kệ bày biện thứ tự hẳn hoi và ngay cả các băng kinh cũng chất đầy. Gia tài tôi là kinh sách, băng giảng và có lẽ ít nhiều tôi cũng có phần tự mãn về nó; tuy nhiên để thừa hưởng trọn vẹn gia tài tâm linh kia thì tôi cũng vẫn thấy mình chẳng có thời gian. Vậy thì cái thời gian tôi cho là thiếu dùng đâu cho hết, thật ra thì cũng chẳng dùng gì cho quan trọng và đúng đắn lắm, vì chỉ xem sơ một vài tờ báo, coi chút tin tức thời sự trong ngày, học ít bài, đi chợ mua sắm và tụng đọc vài thời kinh. Có vậy mà toàn bộ thời gian gần như bị chiếm lĩnh hết, thời gian thấm thoắt trôi qua, tôi vẫn thấy mình chưa thâm nhập gì được nhiều ý vị của đạo. Tôi biết mình đang bị bế tắc nếu cứ tiếp tục sống mãi như vầy, một lối sống chẳng mấy hứng thú đối với tôi, một người tu nhưng có lẽ rất thú vị đối với phần đông người đời. Trong cái mà tôi thấy bế tắc ấy chỉ còn lại niềm mơ tưởng đến một bầu trời xa xăm nào đó, nơi có những ngôi chùa cổ xưa trong núi rừng, có rất ít sự liên lạc và phiền nhiễu với thế giới và xã hội bên ngoài; một nơi chỉ  thuần là học và tu tập trọn suốt một ngày. 

Dù sao cái thực tại trước mắt cũng vẫn là sự chịu đựng, đối kháng với môi trường mà tôi không cảm thấy thích hợp khi tu. Tôi biết xã hội Đan Mạch mà tôi đang sống đã ưu đãi cho tôi khá nhiều về mọi mặt, nhưng tôi chưa thật sự cảm nhận được nó. Hay là tôi đặt nặng cái vai trò tăng sĩ và sự tu tập của mình quá lớn, đến nỗi dường như chính cái xã hội vật chất này mới là cái chướng ngại, ngăn trở tôi được giải thoát giác ngộ. Tôi thấy buồn vì phải chịu đựng sống ở Đan Mạch thêm vài năm nữa cho đến khi hoàn tất trung học, để tôi có thể cất bước ra đi tự do. Thật ra cái học đời đó cũng chẳng thể câu thúc và ép tôi ở lại xứ này, mà nguyên nhân chính là tôi chưa ở đủ năm để có thể vào quốc tịch Đan Mạch; tôi luôn luôn quan niệm rằng cái học đời chẳng có thể giúp ích gì cho mình hơn là một mảnh bằng, và một kiến thức rất đời. Hai cái này thường  thường không đi song song với tri kiến phật pháp và giác ngộ. Tôi khinh thường cái học thế gian và cảm thấy nhàm chán vô cùng mỗi khi cắp sách đến trường, hay mỗi khi ngồi ôn bài ở nhà. Thế đấy mà tôi phải chịu đựng trong ba năm trường. 

Trong thời gian sống và tu học ở Đan Mạch, tôi có những cảm tưởng rất bi quan về đời sống tu học của người phật tử Việt Nam tại đây. Chuyện tu học ở những xã hội Tây  phương dường như là chuyện không mấy thực tế đối với người Việt mình. Ai thấy bức bách hoặc chán chường lắm mới đến chùa để chơi hoặc lạy Phật chút đỉnh; hoặc họ chỉ đến chùa khi có một lễ lạc nào đó để cầu nguyện cho họ và gia đình, ngoài ra thì chùa trống trơn, lạnh ngắt và thật là hoang sơ đến tội nghiệp. Nhưng những người tu lại phải sống ở những nơi chốn ấy đến trọn đời. Các vị ấy sẽ được những gì nếu không ngoài sự hiểu biết Phật đạo, và một tấm lòng biết hy sinh. Nếu họ không được hành trang cho mình bằng sự tín tâm tội phước, và lòng hy sinh thì họ đã quá dễ dàng sống vui hưởng cuộc đời qua danh vọng, gia đình vợ và con. Nếu không phải bằng lòng hy sinh lo cho đạo pháp, phục vụ tín ngưỡng cho.quần chúng thì các vị ấy đã tìm cách ẩn tu cho riêng mình. Nhưng đáng tiếc thay lòng hy sinh ấy ít được người phật tử hiểu cho, mà họ chỉ thích chỉ trích, hủy báng một vài hành vi sai lầm nào đó của vị thầy. Sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ và sự sa đọa về vật chất cũng như tinh thần, thì người phật tử nên biết và hiểu rằng mình đang bị đắm nhiễm và sa đọa rất nhiều, thì cũng nên tập một cái nhìn bao dung hơn, thông cảm hơn nếu gặp một vị thầy nào đó bị lỗi lầm trong cái cám dỗ rất ít ấy.

Sống trong một xã hội mà những thú vui để hưởng được nghiên cứu và đưa lên tận đỉnh cao của nó, thể làm sao con người bình thường có đủ cái thấy., hiểu biết rõ ràng để tránh thoát. Con người thông thường chỉ thấy và đến với cất vui trước mắt, thực tế hơn cho họ trong các buổi dạ tiệc, disco, buổi xem phim TV hoặc phim tập Hồng Kông.

Người ta cũng khó dằn lòng cưỡng được chính mình với những buổi tiệc nhậu, đánh bài, nói chuyện phím với nhau hơn là đến chùa để được nghe giảng, tụng kinh. Những thứ ấy trong một xã hội tân tiến ngày nay sẽ không hấp dẫn được nữa, trừ những bước thay đổi và cải cách lại vấn đề sinh hoạt, tu học trong chốn chùa viện. Những người Tây phương thì lại ở một vị thế khác khi tìm về tu học với đạo Phật, vì họ vốn là những người được sinh ra từ xã hội vật chất, và bị nếm mãi khổ đau của đời sống hụt hẫng nội tâm do từ vật chất gây ra, nên họ có cái nhìn và tìm về đạo Phật một cách tích cực hơn. Còn người Việt chúng ta vốn chưa từng được vật chất nên khi được hưởng liền dễ đi đến sự sa đà. Lúc ấy người ta chỉ biết có vật chất, thỏa mãn một cách thực tế cho thân xác của họ từ trên mắt, tai, mũi, lưỡi cho đến thân xác này. Cái  học và tu tập chút đỉnh của người ta dường như chỉ là những giờ giải lao khi xem những bộ phim quá dài, hoặc khi bị bực dọc chuyện gì đó trong gia đình. Người có tâm thành tu học đến chùa đếm chỉ có trên đầu ngón tay.

Cũng may là Đan Mạch rồi cũng có chùa, có thầy về nên phần sinh hoạt Phật giáo ở đây cũng tạm thời ngoắc ngoải. Tôi chỉ là một chú tiểu bấy giờ, mà là một chú tiểu có cái nhìn bi quan về cuộc đời và sinh hoạt Phật giáo của người Việt, nên thường tìm cách né tránh mọi người. Thuê nhà riêng ở một căn chung cư nọ, tôi lập bàn thờ và tự tu lấy mình với những thời khóa mà tôi tự đặt ra. Không có thầy bên cạnh mà chỉ có kinh điển và một ý chí tu hành, tôi sống như vậy nhiều năm cho đến khi lên đường vân du sang Ấn Độ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2022(Xem: 6933)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 17736)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5215)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5460)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6166)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5076)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4093)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5340)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3884)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3007)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567