Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 3. Thức tỉnh và xuất gia

18/07/201509:32(Xem: 1676)
Chương 3. Thức tỉnh và xuất gia
TỰ TRUYỆN MỘT NGƯỜI TU 
Thích Hạnh Nguyện 

Nhà xuất bản Hồng Đức 2015
CHƯƠNG 3
THỨC TỈNH VÀ XUẤT GIA

"Đời sống gia đình tựa hồ như sào huyệt của bao điều tranh chấp, như nơi chứa dựa của bao thiếu thốn, bao nhu cầu. Như chỗ cư trú của bao điều phiền não, bao nhiêu sự thất bại, bao nhiêu việc trái lòng. Nhưng đời sống của người đã ly gia cắt ái, thật là thung lũng thâm diệu như trời xanh." Narada

Do gian dối và khéo léo trong việc dành dụm, nên dần dần tôi có được tất cả những thứ tôi muốn, hơn thế nữa là khác. Đôi khi tôi thấy thích thú và hãnh diện vì thành công mà tôi tạo được, nhưng bù vào đó tôi vẫn còn bực bội vì thấy căn phòng quá nhỏ không chứa các đồ vật mà tôi mua sắm được. Hình như cứ mỗi tháng, đồ vật lại thêm đầy đến nổi tôi phải tìm cách bán bớt. Do đó trong những năm đầu sống tại xứ người là những năm đầy toan tính, sở hữu và mua bán.

Niềm vui tuổi trẻ của tôi trong thời gian đầu sống tại xứ người có những ý nghĩa như vậy đó. Rồi số tiền lãnh trợ cấp hàng tháng không đủ trả những đồ vật đắc tiền, tôi bắt đầu nghĩ cách mua trả góp, và từ đó các hóa đơn nợ cứ lần lượt được gửi tới phòng tôi. 

Có lẽ cái hạnh phúc được ôm ấp sở hữu những đồ vật, cũng không đáng giá bằng cái lo lắng của một tâm ý khao khát và lo lắng những bill nợ. Cái tâm khao khát gần như không bao giờ cho người ta có được giây phút thỏa mãn vì nó được sự hỗ trợ của si mê, một cái nhìn và hiểu biết lệch lạc về con người và đời sống, về hạnh phúc và khổ đau.

Phải chăng tôi đã phải trả giá cho những sự hiểu biết và nắm bắt lệch lạc ấy bằng nỗi bất an, lo lắng và bị dằn vặt về mặt tinh thần. Cái chân trời tươi sáng của sự hạnh phúc giàu có mà tôi một thời nghĩ tưởng ở bên kia bờ đại dương, giờ đây đã cho tôi thấy rõ hơn về những mặt trái của nó.

Mặt trái của sự nắm bắt và sở hữu vật chất là không đem lại được sự thỏa mãn và an vui trong tâm hồn. Những thứ mà tôi sở hữu được mang một ý nghĩa nào đây khi mà đời sống của con người chỉ đòi hỏi một điều duy nhất là có được an lạc và hạnh phúc trong cuộc sống. Phải chăng những của cải vật chất mà tôi có chứa đựng được mang trọn vẹn giá trị và ý nghĩa này thì tôi thấy mình sung sướng biết bao. Tuy nhiên nó làm tôi nghĩ ngợi, lo âu và phải suy tư nhiều hơn là cho tôi một trạng thái tâm trí nhẹ nhàng và im lặng. Có lẽ tôi phải sống một cuộc đời nội tâm mới tìm ra được chân lý, tôi phải tìm hiểu sâu thêm về lẽ sống để tìm một trạng thái quân bình nào đó giữa đời sống tiện nghi vật chất và an vui tâm hồn.
 
Tôi không chối bỏ những giá trị của cái thú vui vật chất mà tôi đang được. Rõ ràng là tôi có được niềm vui và sự sung sướng, khi tôi sắm được một chiếc xe đạp thật đẹp để mỗi chiều thong dong dạo chơi đó đây. Một dàn máy nhạc tân kỳ, cũng đủ làm tôi hòa mình nhún nhảy theo các âm điệu xập xình vui tai, và những chiếc máy chụp hình cũng đã từng làm tôi say mê không ít, và tốn không biết bao nhiêu tiền cho các cuộn phim chụp dở dang. Dẫu sao qua những tháng năm sống và ôm trọn với đống vật chất thừa thãi ấy, tôi vẫn chưa thực sự thấy được sự thỏa mãn với chính mình. Hoặc bởi những thứ vật chất mà tôi đang nắm bắt và ôm trọn ấy chỉ là cái bả của những thứ vật chất cao sang khác, hoặc bởi nó chỉ là những thứ thật sự mang lại những cảm giác sung sướng nhất thời và hạnh phúc giả tạo. 

Một cảm giác bất mãn nào đó từ từ len lẫn trong tâm tôi qua những đêm dài trằn trọc. Tôi thấy mình đang sống nhưng dường như bị hụt hẫng trong một khoảng chân không nào đó. Hay là tôi bị bất thường về mặt tâm lý; suy cho cùng thì tôi cũng chưa một lần nhớ thương hoặc thất tình với ai. Chỉ có điều tôi thấy mình như bị bế tắc điều gì đó trong cuộc sống. Một bế tắc mà đôi khi chính tôi cũng không thể tháo gỡ, vì mặc cảm hay vì một nhận thức cá biệt nào đó. Tôi thấy mình không thể giống các bạn bè cùng lứa, vì dường như tôi và họ có sự khác nhau quá xa trong nhận thức, suy nghĩ. Bạn bè tôi cùng trang lứa họ sống rất hồn nhiên trong những bữa tiệc vui đầy rượu thịt, của những buổi đi chơi đêm với các bạn gái trong các hộp đêm, quán bar. Trong một xã hội có sự rộng rãi và tự do về mặt tình dục, thì có mấy người trẻ mà tự ngăn mình với những thú vui đê mê gần như là mù quáng ấy. Điều ấy cũng chẳng có gì là xấu xa và tội lỗi vì con người khi được sinh ra thì họ đã được phú cho những nhân tính ấy. Nhưng rồi các lý lẽ ấy cũng không làm tôi an tâm và cảm thấy dễ chịu, vì luân lý và đạo đức đã từng học hỏi trong gia đình tôi không cho phép. Ngay cả cái việc trường chay này cũng là gián tiếp một phần ngăn cản tôi vào những chuyện tự nhiên như các bạn. Tôi thấy và tự nhận định lấy mình rằng những chuyện ấy không sạch và nó gây cho tôi cảm giác khó chịu ngượng ngập không ít. Từ những quan niệm trên tôi thấy mình cách biệt hẳn với số bạn bè về mọi mặt, tự nhiên tôi muốn rút lui về cái thế giới riêng tư. 

Có lẽ từ những sự bất mãn về mặt tâm lý đưa tôi đến trạng thái thụ động, và từ từ trở nên ít giao thiệp với người. Một mặt tôi muốn sống như một người bình thường ở lứa tuổi đôi mươi là yêu đương lãng mạn, nhậu nhẹt và chơi bời khắp đó đây; một mặt tôi muốn sống một đời sống trong sạch đầy đạo hạnh. Ở giữa hai thái cực đó tôi bị chơi vơi chưa rõ và định được phương hướng cho đời mình. Về đạo tôi chưa có đủ một sự cảm nhận và hiểu biết rõ ràng, về đời tôi cũng chưa dự tính cho một tương lai nào cố định. Trong lúc băn khoăn và có nhiều ưa phiền về những khúc mắc trong đời sống nội tâm và vật chất bên ngoài, tôi chỉ biết tự an ủi bằng những băng đia và kinh sách mà tôi đã mượn được từ nơi các bác lớn tuổi trong vùng.

Bế tắc mà tôi đang gặp phải chính là cách nhận thức lệch lạc một chiều của tôi. Phải chăng vật chất, tiền bạc và sắc đẹp có thể là tất cả, nhưng đâu phải nó là chiếc đũa thần vạn năng? Thật là đúng thay khi ngày nọ tôi tình cờ đọc được một lời viết của George Rimer, một chủ bút danh tiếng của thời báo, "tạp chí tối thứ bảy": 

"Thật là hay nếu chúng ta có được tiền và những đồ vật mà đồng tiền mua được. Nhưng cũng là một điều hay nữa nếu lâu lâu chúng ta thử xem lại rằng, chúng ta đã mất chưa những đồ vật mà đồng tiền không thể mua được".

Có thể tâm trạng của tôi là tâm trạng mà George Lorimer nói đến và có thể từ những ý tưởng hay và cao đẹp của người xưa, mà tôi bắt đầu đặt lại câu hỏi và ý nghĩa đời sống của chính mình. Tại sao tôi lại được sinh ra đời và khi phải có mặt trong cuộc đời này thì đời sống của một người phải ra sao? Làm thế nào để ít nhất có một ý nghĩa và giá trị nào đó trong lúc sống? Liệu đời sống mà tôi đang sống đây cứ tiếp diễn như thế này mãi thì sẽ ra sao trong những thời gian sắp tới? Lớn thêm một chút nữa rồi tôi sẽ lập gia đình như các bạn tôi đã và đang làm? Tôi phải làm những chuyện giống như các bạn tôi và những người khác đã làm. Ở những chuyện ấy tôi thấy là lạ và có cảm giác không hợp với mình! Nếu hồi còn ở Việt Nam tôi có những dự tính sơ khởi nào đó trong đầu sẽ làm khi ra đến hải ngoại, thì chỉ là dự tính làm việc và kinh doanh sao cho có thật nhiều tiền để giúp đỡ quý thầy và chùa; còn dự tính hay đặt kế hoạch tương lai cho mình liên hệ đến đời sống gia đình an ổn với vợ và con, thì tôi vẫn chưa một lần tính đến. Tôi tự nghĩ nếu đời sống của mình không cần lập gia đình mà chỉ làm toàn các việc thiện, lợi ích cho người thì cũng đủ quý và ý nghĩa lắm rồi. Trong tôi lúc ấy cũng vẫn chưa có một ý niệm nào về việc xuất gia đi tu. Qua những băng giảng của quý thầy và một số kinh sách mà tôi tìm được, tôi thấy ra một ngõ thoát nào đó trong đời sống quay trở về với cái nhìn nội tâm của chính mình. Rõ ràng là tù đó tôi thấy nơi mình có hai thế giới và hai chiều hướng muốn sống khác biệt. Tuy nhiên tôi vẫn có cảm nhận và gần gũi hơn với đời sống nội tâm để có thể tìm được một giải tỏa nào đó trong trạng thái tâm lý lưng chừng. Khi được hiểu thêm về đạo và suy tư về những lời dạy trong kinh sách, tôi mới nhận ra rằng dường như những nhận định và hiểu biết trong một thời của tôi có cái gì bất ổn. Hiểu biết và cho rằng đời sống vật chất và tiền bạc là cái tối thượng trong cuộc đời đã bị lung lay khi tôi đọc qua tập sách của một vị thầy ấn giáo, ngài Sivananda đã nói rằng: "Tiền bạc có thể mang lại thức ăn nhưng không thể mang lại sự thưởng thức, mang lại thuốc nhưng không thể mang lại sức khoẻ, mang lại sự quen biết nhưng không phải bạn hữu, mang lại người đầy tớ nhưng không phải sự trung thành, mang lại một ngày vui nhưng không phải sự an bình và hạnh phúc".

Từ một cái nhìn, suy tư và hiểu biết mới qua các kinh sách mà tôi đọc được, tôi bắt đầu để ý hơn về tôn giáo và tìm cách làm quen lại với đạo để mong khám phá ra một cái gì sâu xa hơn trong đời người. Đọc kinh sách đã trở thành một thú vui của tôi, và cũng từ đó tôi có phần hiểu biết và sáng suốt hơn với chính mình trong các suy tư về những khúc mắc của cuộc đời. Tuy nhiên hiểu biết rõ ràng về đạo Phật và ý tưởng đi tu vẫn chưa có trong tôi. Thay vào đó, những pháp tu có tính cách kích thích và gợi hứng là làm tôi phấn khởi hơn hết. Chân lý ở các đạo có rất nhiều nhưng dĩ nhiên cũng phải có một ý nghĩa nào lúc bấy giờ mới có thể kích thích và lôi kéo tôi ghê ghớm như vậy. Sau một thời gian chọn lọc với đủ pháp môn hành trì kể cả Phật giáo, Ấn giáo và Vô vi, sau cùng tôi chọn pháp tu thiền này theo ông Tám. Đó là pháp môn thiền xuất hồn, một phương pháp thiền khoa học và huyền bí Vô vi. 

Tôi bắt đầu có đổi thay từ năm thứ hai sau ngày đến Đan Mạch, đã thấy mình khác trước và đang dần dần đi vào con đường nội tâm, con đường để lên được các cảnh giới cao hơn và hợp cùng bản thể của các đấng bề trên. Đó là lời lẽ và triết lý của pháp môn thiền Vô vi và nếu tôi chuyên nhất đi vào con đường này, các ngài sẽ khai mở thần nhãn và các khả năng phi thường trong tôi và tôi sẽ trở thành một con người siêu phàm với các sự thực chứng sâu xa, đầy đủ mọi phép lạ. Qua những bức thư liên lạc với hội ái hữu Vô vi bên Hoa Kỳ, tôi nhận được sự trả lời với toàn bộ những kinh sách và các băng giảng của thầy Tám, người được xem như đã chứng đắc pháp thiền này. Điều kiện để thành tựa pháp tu này là: phải trường chay và có ý chí trong sự tu tập. Tôi đã hội đủ hai yếu tố này.

Không quản ngại những khó khăn, tôi lao đầu vào việc thiền tập chẳng kể sớm hôm. Thời gian tốt nhất cho việc thiền tập là khoảng một giờ đêm và tôi đêm nào cũng đã thức dậy rất đúng giờ. Ngồi xếp bằng, hai ngón cái bịt tai và các ngón trỏ, ngón giữa để trên màng tang và mí mắt. Tôi ngồi thiền và tu tập theo lối ấy được vài tháng, có những cảm giác khác lạ trong tôi. Tôi thấy rằng mình đang có tu, đang có sự thông hiệp cùng với các đấng bề trên và trong lòng một sự thương xót rất lớn khởi ra đối với những người không có sự tu tập như tôi. Tôi thấy tội nghiệp cho các chúng sinh, do vì vô mình không thấy được pháp tu cao siêu này, không thực hành và phải chịu cảnh si mê trong luân hôi. Tình thương ấy mỗi ngày một dâng cao trong tôi cơ hồ như tôi sắp ngộ và chứng đắc một cái gì đó. Cũng trong thời gian này tôi muốn tự mình đứng ra lập một chi nhánh của hội Vô Vi tại Đan Mạch để giúp đỡ và khai ngộ những người chưa được khai ngộ. 

Tuy tìm hiểu và thực hành theo đạo Vô vi, tôi cũng không quên tiếp tục nghe và đọc tụng kinh Phật. Những lời giảng và băng tụng của quý thầy cũng được tôi nghe vào những đêm thanh vắng để ru hồn vào giấc ngủ. Những giấc ngủ say và đẹp nhất của tôi là những giấc ngủ chìm dần theo những lời kinh tụng. Các âm vang và lời kinh huyền diệu làm sao, chính ở những cái này dường như mới làm tôi nguôi ngoai và có được sự định tính trong lòng. Con đường thật sự tôi vẫn chưa chọn, nẻo tương lai cũng vẫn còn là một bóng xa mờ.

Vào một mùa hè tháng sáu, tôi xin được một việc làm để kiếm thêm tiền trong thời gian nghỉ học. Chẳng bao lâu tôi được việc và bắt đầu đi làm. Hai tuần trôi qua và một hôm ở nhà, tôi được thư mời tham dự đại lễ Phật đản ở chùa Viên Giác. Ý hướng đi chùa bỗng bừng dậy trong tôi một cách đột ngột. Mạnh mẽ, thôi thúc như không gì có thể cản nổi. Có lẽ một nhân duyên tiền định nào đó đã đến với tôi chăng? Tôi thầm nhủ trong lòng rằng mình phải quyết định dự lễ lần này cho kỳ được. Thế là tôi đến xưởng làm và xin phép ông chủ cho tôi nghỉ để đi dự lễ. ông ta nói: "Ông mới làm việc có hai tuần mà xin nghỉ một tuần thì sao được. Không được." Ông ta nói giọng dứt khoát."Nhưng tôi rất muốn đi mà, đây là buổi lễ quan trọng trong tôn giáo của tôi." "Không được, ông chủ gằn từng tiếng, và nếu ông đi thì tôi cho ông thôi việc."Thôi việc thì thôi! Sợ gì, tôi lầm bầm trong bụng và nói ông ta tôi về. ông chủ đã hiểu rằng tôi cương quyết. 

Tôi đến chùa Viên Giác sớm hơn buổi lễ ít ngày. Cảnh chùa vắng lặng, bên trong mùi nhang trầm bay thoang thoảng tỏa một mùi thơm nhè nhẹ. Đâu đó tôi thấy một vài chú tiểu đi qua lại làm công việc. Mấy chú trạc bằng tuổi tôi đã bỏ đời sống gia đình xuất gia đi tu. Tôi chẳng hiểu nguyên do nhưng thấy những bộ áo màu nâu, màu lam là tôi có cảm tình và quý mến. Mấy chú chẳng có thời gian nói chuyện với tôi và tôi cũng chẳng muốn phiền mấy chú nên đi vào trong chánh điện ngồi im lặng nhìn ngắm tượng Phật. 

Đã lâu lắm rồi tôi chưa có được giờ phút như hôm ấy, giờ phút được ngồi im để nhìn, ngắm và suy tư. Cuộc đời đã có được ý nghĩa và niềm vui khi những ước mơ tôi thành tựu. Tựu chung rồi cũng vật lộn với ba đồng tiền và thứ vật chất tạm bợ kia. Cho đến bây giờ có được hạnh phúc gì đâu trừ những niềm vui ngắn ngủi nhưng bên cạnh lại phải chịu những đêm dài mất ngủ. Đức Phật từ bi ở trên Ngài có thấu cho con nổi khổ này chăng? Gương mặt ngài từ hòa quá, gương mặt các chú tiểu ở đây cũng vậy, có đầy sự an bình và hạnh phúc nào đó còn con sao lại chịu những sự khổ sầu như vậy. Tại sao con lại không sống được như các chú tiểu ở đây để có được hạnh phúc và sự bình an trong tâm hồn. 

Buổi lễ Phật đản năm ấy là buổi lễ quan trọng vì cũng là buổi lễ đặt viên đá đầu tiên xây chùa Viên Giác. Người phật tử về dự lễ rất đông và đâu đâu cũng thấy người là người. Nam thanh nữ tú dập dìu, tiếng cười nói chào nhau vang vang cả sân chùa. Tôi không có được niềm vui hay sự hứng khởi nào với đám đông người và cũng chẳng còn tâm ý để đảo vòng vòng bắt bạn hoặc ghẹo chọc những cô gái cùng lứa. Tất cả dường như tôi đang dồn vào nỗi buồn và suy tử thầm kín của mình; tôi chỉ len lén đứng ở một góc nào đó nhìn ngắm thiên hạ.

Sau buổi lễ tôi về lại Đan Mạch với khuôn mặt suy tư, tôi đang suy nghĩ để chọn cho mình một con đường. Đó là hành động rời bỏ tất cả để đi xuất gia vì tôi cảm thấy quá chán ngán với cuộc sống này rồi. Một cuộc sống không thật sự có niềm vui và ý nghĩa dù rằng mình có đủ tất cả. Một cuộc sống mà luôn luôn phải tranh đấu để có và để được thì sao có thể mang lại một sự an bình trong tâm hồn. Còn việc ra đi để xuất gia thì sao? Tôi chưa biết và chẳng hiểu gì về đời sống xuất gia nhưng ở những khuôn mặt bình an, ở đó có một quang cảnh thanh tịnh và nhẹ nhàng thì tôi biết chắc ở đó sẽ tốt hơn những gì tôi đang sống, chắc chắn ở đó sẽ cho tôi được bình an và sự hạnh phúc trong tâm hồn. Có được niềm tin vững chắc như vậy, tôi quyết định đi tu. 

Lẽ ra tôi muốn đi thật xa, rời bỏ xứ Đan Mạch này nữa kìa để đi đến tận chân trời nào đó để tu, để không còn phải vướng bận đến bạn bè cũ và gia đình. Tôi luôn luôn là một người muốn được sống trong sự phiêu lưu xa lạ, còn những cái quen biết và thân thuộc chưa từng làm tôi thấy thỏa mãn. Nhưng có lẽ một nhân duyên tiền định nào đó với thầy mà sau cùng qua những lần bàn bạc, tôi đồng ý xuất gia với thầy Viên Giác. Khi được thầy đồng ý, tôi thông báo cho các anh chị em biết và gửi thư về báo cho má tôi hay. Rồi không chờ sự đồng ý của các anh chị em, cũng chẳng chờ thơ ưng thuận của má tôi từ Việt Nam, tôi mang hành lý rời bỏ nhà và sang ở chùa Viên Giác. Một tuần sau ngày lễ Phật đản là lễ xuất gia của tôi. Đơn sơ, giản dị và chẳng có người thân tham dự, chỉ có thầy tôi và một thầy khác trong chi bộ Giáo hội. 

Buổi lễ bất đầu bằng một nghi thức sám tụng thông  thường và sau đó là lời tác bạch của tôi, thưa rõ nguyên nhân vì sao tôi muốn được xuất gia và ý nguyện xuất gia của mình. Đến giờ phút cảm động và linh thiêng ấy, tôi đứng thẳng trước quý thầy chắp tay và thưa: "Kính bạch chư tôn đức, con nay có duyên sự xin đầu thành đảnh lễ  chư tôn đức tác bạch.
Sau khi lễ xong tôi quỳ gối tác bạch": "Nam mô A Di Đà Phật. Kính bạch chư tôn đức! Phàm được mang thân người đã là một điều quý báu, lại được cơ duyên nghe học thêm Phật pháp, đó lại là một điều quý báu hơn. Nay do duyên lành con được cả hai điều ấy Kính bạch chư tôn đức! Cuộc sống của thế gian có quá nhiều khổ lụy, vui ít buồn nhiều, khổ não sầu đau cứ vây mãi lấy đời con mà con do vì vô minh sâu dày nên chưa một lần thoát được. Nay do duyên lành được nghe lời Phật, được thấm nhuần giáo pháp thâm sâu của Ngài và cảm nhận được sự bình an mà những người để tử Ngài đã sống; qua đó con tin rằng đời sống xuất gia theo Phật là một đời sống thánh thiện đầy đạo hạnh, sẽ có được nhiều an vui, lợi lạc cho chính mình và mọi người. Nên nay con cầu xin chư tôn đức từ bi lân mẫn ban ân cho con được phép xuống tóc xuất gia và con nguyện trọn đời nương theo cửa Phật, trước tu tập cầu giải thoát giác ngộ cho mình, sau cứu độ muôn loài. Nam Mô A Di Đà Phật. 

Sau đó là lời hứa khả của thầy tôi mà đại ý: "Lành thay, thiện nam tử! Việc con muốn xin được xuất gia quả là một điều lành, đây là một việc làm khó nhưng cao thượng vì chư Phật, thánh hiền bồ tát trong quá khứ đã không ai mà không làm vậy. Nếu có sự hy sinh nào quý báu nhất và cao cả nhất trong cuộc đời thì chính là sự hy sinh cuộc đời mình để cầu xuất gia giải thoát giác ngộ cho mình và người. Sau đó thầy tôi giảng giải chi tiết thêm về ý nghĩa và đời sống đạo hạnh của người xuất gia và sau cùng khuyên nhắc tôi phải luôn tinh tấn tu học cầu giải thoát để đền đáp ơn tam bảo và chúng sanh. Lời cuối thầy sách tấn tôi tu học, thầy dạy tôi đảnh lễ bốn hướng để tạ bốn ân là: ân đất nước quê hương đã nuôi nấng mình; ân sinh thành dưỡng dục của cha mẹ; ân thầy cô đã dạy dỗ nên người; ân của tất cả chúng sinh đã có liên hệ chăm sóc lo lắng cho mình. Sau khi lễ tạ bốn hướng tôi đảnh lễ bàn Phật và chư tăng ba lạy rồi quỳ gối chắp tay để thầy tôi làm lễ cắt tóc.

Giữa khung cảnh trang nghiêm của buổi lễ, giọng kinh trầm hùng của quý thầy vang lên chứa chan một sự thiêng liêng linh cảm nào đó trong buổi lễ. Tôi thấy lòng mình ấm lại và ngây ngất với những lời kinh tụng của quý thầy. Đây là giây phút quân trọng và ý nghĩa nhất trong cuộc đời nó đánh dấu một sự chuyển mình, một sự hướng thường hay đang bắt đầu mở ra một ngõ thoát mới trong đời. Ngõ thoát ấy rõ ràng là còn quá nhiều xa lạ với tôi nhưng ít nhất lúc ấy tôi có niềm tin rằng, đó là ngõ thoát duy nhất của một sự chọn lựa đúng đắn trong đời. Tâm trí không cho phép tôi nghĩ ngợi nhiều khi lời thầy tụng đến đoạn:

Thiện tai thiện nam tử 
Năng liễu thế vô thường 
Khí tục thú Nề hoàn 
Công đức nan tư nghĩ. 

Nghĩa là: Lành thay người thiện nam, đã biết cuộc đời này vô thường và bỏ đi đời sống thế tục để quay về với niềm vui của Niết bàn; công đức ấy thật là khó nghĩ lường. 

Bài kệ thứ hai làm cho người tôi rúng động hơn qua ý nghĩa như vầy: "Bỏ đi cái hình dáng bề ngoài này mà cầu giữ ý chí, đi xuất gia để hoằng dương những  giáo pháp của các bậc thánh và nguyện một lòng độ cho tận tất cả mọi sanh linh.

Khi quý thầy đọc đến những đoạn ấy, thì mái tóc của tôi cũng từ từ rơi xuống, lả tả bay ngang dọc nằm rơi rải trên tờ báo trải dài dưới đất. Thầy không cắt hết mái tóc mà chỉ là một vài nhát kéo tượng trưng, tuy nhiên với cái đầu tóc dài kiểu cao bồi ấy của tôi, tóc cũng bay rơi rụng đầy trước mặt. Tôi thật sự cảm thấy xúc động trong lòng, thấy mình bỗng nhiên làm được một việc rất lớn, khó làm mà chưa một lần tôi tưởng tượng mình có thể làm được. Thầy có nói rằng, xuất gia là việc làm của người đại trượng phu, một người có ý chí cao cả, siêu phàm mà người thường khó bì được. Vậy mà nay tôi đã làm được rồi, tôi sẽ không còn nhỏ bé và tầm thường như thằng Tý thuở nào chỉ biết ăn chơi, học đòi và làm phiền lòng ba má gia đình. Một cảm giác khoan khoái và tự tôn nảy sinh trong đầu, tôi chợt thấy mình có sự kiêu hãnh hẳn ra sau cơn xúc động được cắt tóc và nghe những lời kinh tụng của quý thầy. Nhưng những người phật tử đang quỳ chung quanh tham dự buổi lễ tôi thấy có người khóc vì cảm động. Tôi không hiểu họ khóc vì lời hay và ý nghĩa thâm trầm của bài kinh tụng hay vì sự ra đi xuất gia hy sinh cao cả của chính tôi. Nếu sự chối bỏ cuộc đời của tôi mang một ý nghĩa nào đó để người ta phải cảm động, bồi hồi thì quả thật cũng là điều vinh dự biết bao!

Sau buổi lễ tôi được đưa ra hiên chùa để một chú tiểu lo phần tóc còn lại trên đầu. Cạo xong, tôi được cho một bộ đồ vạt hò để thay đổi bộ đồ thế tục còn đang mặc. Tôi bước vào buồng tắm, cánh cửa sau lưng được tôi khóa chặt lại. Vậy là kể từ lúc ấy cuộc đời thế tục của tôi coi như đã chấm dứt. Cánh cửa thế gian giờ đây đã khép sau lưng và cổng đạo đã mở ra cho tôi nhìn thấy một lối đi khác. Tôi thấy mình khác lạ hẳn ra khi cạo tóc, đầu tôi giờ đây láng bóng. Trước khi tắm rửa, tôi cứ đứng mãi trước tấm gương để ngắm nghía mình trong hình dạng mới. Cái đầu cạo trọc còn mới tinh, bộ đồ y phục vạt hò cũng còn quá thẳng nếp nên cái hình người tôi trông xa trông gần cứ thấy ngơ ngơ, ngao ngáo làm sao. Không có tóc, mảng đầu tôi xanh ngắt quái dị, tôi chợt nhớ đến đứa em gái tôi có lần nói: "phải chi đi tu mà không phải cạo tóc thì em sẽ đi tu liền, quả thật là nó cũng có lý đó chớ! Tôi mông lung suy nghĩ biết bao là chuyện trong khoảng thời gian tắm rửa. Không biết rồi đây khi người thân gặp lại tôi sẽ nghĩ ra sao? những bạn bè cũ khi thấy tôi họ sẽ nghĩ thế nào? gặp lại những người trong gia đình họ có  la rầy tôi không? Họ sẽ nghĩ như thế nào về cái quyết định bất thường này của tôi. Từng loạt câu hỏi và thắc mắc ngây ngô hiện lên và chạy dài trong đầu tôi từng hồi một. Buổi gội đầu và rửa thân mình của tôi ngày hôm ấy đã trải qua hai tiếng đồng hồ chẵn!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2022(Xem: 7024)
Hai năm trước, khi tin Hòa Thượng Thích Minh Tâm viên tịch lan truyền khắp năm châu, ai ai cũng ngỡ ngàng thương tiếc. Hầu như các tự viện trên thế giới đều tổ chức lễ tưởng niệm tri ân Ngài. Tu Viện Quảng Đức cũng không ngoại lệ, buổi lễ truy niệm đã được tổ chức một cách trang nghiêm, trọng thể. Sau đó TT Thích Nguyên Tạng đã lên chương trình Hành Hương Âu Châu vào cuối tháng 7 năm 2015, với mục đích chính là tham dự lễ Đại Tường Tưởng Niệm HT Thích Minh Tâm, đồng thời dự lễ Khánh thành Chùa Khánh Anh. Phật tử TVQĐ thật hoan hỷ với tin này và đã cùng nhau lập ra kế hoạch tiết kiệm để tham dự chuyến Hành Hương Âu Châu.Thời gian hai năm tưởng là lâu, nhưng thoắt một cái ngày đi đã gần kề, mọi người nô nức chuẩn bị hành trang để lên đường. Phái đoàn Hành Hương có 83 người gồm:Melbourne: 38 người; Sydney: 21 người; Perth: 9 người;Adelaide: 5 người.
07/02/2022(Xem: 18012)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
24/01/2022(Xem: 5282)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5502)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6220)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 5109)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 4125)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5376)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3919)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3021)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567