Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

30. Mùa An Cư Thứ Mười Chín

17/03/201408:48(Xem: 23311)
30. Mùa An Cư Thứ Mười Chín
blank
Mùa An Cư Thứ Mười Chín

( Năm 569 trước TL)


Móc Cho Con Mắt Đẹp

Trong thời gian đức Phật ở đây, không những chư tăng ni trong kinh thành mà các vùng lân cận cũng lặn lội bộ hành về Veḷuvanārāma để nghe pháp. Cũng như lệ thường, khi nhu cầu thính pháp quá nhiều, nhiều đợt và nhiều đoàn, nhiều toán bất thường, đức Phật phải chỉ định một số vị trưởng lão thuyết thay. Hôm ấy, vào buổi chiều, khi đã vắng người, đang ở trong hương phòng, đức Phật được thị giả báo cho biết là có một tỳ-khưu-ni muốn gặp ngài, cần thiết lắm.

Đức Phật hướng tâm một lát rồi hỏi:

- Một tỳ-khưu-ni bị hư một mắt phải không?

- Thưa, quả đúng vậy!

Thấy vị tỳ-khưu có vẻ ngạc nhiên, sững sờ; đức Phật bèn tiết lộ chút ít sự thật để giải trừ trí tò mò của ông ta:

- Có một chàng thanh niên con nhà giàu, ăn chơi, đàng điếm, thấy vị tỳ-khưu-ni mà y cho là đẹp quá, và đẹp nhất là đôi mắt, muốn lân la tán tỉnh và mở lời sàm sỡ. Con gái nhỏ của Như Lai, vốn đã đắc quả thánh A-na-hàm, không ngần ngại “móc con mắt đẹp” ấy đem cho chàng ta... Sợ hãi quá, chàng thanh niên hối lỗi và hứa không còn dám xúc phạm đến ai. Và bây giờ cô ta bị hư một con mắt, đến đây muốn gặp Như Lai đó...

Rồi đức Phật nói tiếp:

- Ông ra thưa với Sāriputta, Moggallāna hay Ānanda cho triệu tập tăng chúng tại giảng đường, Như Lai sẽ có một buổi pháp thoại đặc biệt.

Khi hội chúng đã tề tựu đầy đủ, đức Phật bước ra và ngồi xuống trên bảo tọa, thân tỏa ánh hào quang sáu màu, rực rỡ, đẹp đẽ, chói sáng rồi lung linh, chập chờn, như thực, như hư...

- Này, Subhā! Đức Phật nói - Này con gái! Hãy ngước một con mắt của con để nhìn Như Lai xem thử thế nào?

Vị tỳ-khưu-ni đang quỳ phía trước, ngửng đầu lên bằng một con mắt của mình, ngắm nhìn đức Thế Tôn - thấy tướng hảo quang minh của ngài, chợt nhiên, con mắt hư của cô ta rùng rùng chuyển động, tế bào, làn da, những đầu dây thần kinh ở đấy như có sự biến đổi kỳ lạ; rồi hốt nhiên, con mắt hư của cô chợt rực sáng...

Bậc Đạo Sư biết được tâm trạng, căn duyên và trình độ của nàng nên ngài giáo giới:

- Này con gái! Do tâm xuất ly tối thượng của con nên con mắt hư của con nó rực sáng! Do năng lực bố thí ba-la-mật nhiều đời, dễ dàng móc đi con mắt đẹp để cho đến chàng thanh niên hư hỏng nên mắt con nó rực sáng. Do con đang ở tầng thánh quả thứ ba với trạng thái tâm xem thân xác vật chất và cõi dục giới như cục bướu, như ghẻ lở, như bệnh tật, như xác thối – nên mắt con tự động nó rực sáng. Như Lai đã trợ duyên, trả lại đôi mắt cho con rồi đó.

Trong lúc tỳ-khưu-ni hân hoan quỳ lạy đức Phật thì ngài quay sang đại chúng:

Này chư tỳ-khưu! Trong đời sống của một sa-môn, trên bước đường tu tập sẽ có rất nhiều cuộc chuyển hóa, chuyển hóa tức khắc hay chuyển hóa từ từ. Chúng đã xảy ra, đang xảy ra và sẽ xảy ra. Đấy là chuyển hóa từ tham sang ly tham, đạt tâm thí xả; chuyển hóa từ sân sang ly sân, nuôi dưỡng tâm từ; chuyển hóa từ si sang ly si, được minh mẫn, sáng suốt; nói cách khác, chuyển hóa từ mê sang ngộ, chuyển hóa từ ngu sang trí, chuyển hóa từ phàm sang thánh; nói cách khác nữa, chuyển hóa từ đau khổ sang an vui, từ phiền não, buộc ràng sang tự do, giải thoát; thêm một cách nói khác nữa, chuyển hóa từ nhu cầu vật chất sang nhu cầu tinh thần, từ dục giới lên sắc giới; chuyển hóa từ sắc giới lên vô sắc giới, chuyển hóa từ vô sắc giới đến ly thoát ngoài ba cõi...

Trong lúc đức Thế Tôn giảng nói, tỳ-khưu-ni Subhā cố trấn tĩnh sự hỷ lạc dâng đầy khắp cả người, rần rần các tế bào, trạng thái tâm như lơ lửng giữa mấy thượng tầng thanh khí; cô phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán ngay tại chỗ(1), với hiểu biết ý nghĩa và hiểu biết về pháp(2).

Và cô an trú vào niềm vui siêu thế ấy.

Đức Đạo Sư biết chuyện gì xảy ra. Và còn biết đại chúng phàm tăng không rõ đầu đuôi nhân quả, tự sự sau trước ra sao nên ngài yêu cầu tôn giả Moggallāna kể lại nhân quả câu chuyện cho mọi người cùng nghe.

Vâng mệnh, tôn giả Moggallāna quay sang hội chúng:

- Này chư vị! Tỳ-khưu-ni Subhā đây vốn là con gái của một bà-la-môn danh giá nổi tiếng ở kinh thành Rājagaha của chúng ta. Nàng sinh ra trong nhung lụa, được sự chăm sóc, nuông chiều tế nhị; mọi tiện nghi vật chất đều sang trọng, xa hoa và tế nhị. Càng lớn lên, cô tiểu thư kia càng xinh đẹp, xinh đẹp tính nết, xinh đẹp mặt mũi, nước da, tóc, cả thân vóc và tay chân. Ngoài ra, từ khi cô mở mắt chào đời thì trong gia đình như thịnh vượng hơn, may mắn hơn, vui vẻ hơn, có nhiều điềm lành tốt hơn – nên ai cũng quen gọi là “subha”(1), từ đó, Subhā trở thành tên của cô.

Mấy năm về trước, trên đường du hóa, đức Tôn Sư ghé Veḷuvanārāma tịnh xá; và nàng là người thường hay đi nghe pháp nên có đức tin và trở thành một cận sự nữ. Càng nghe pháp chừng nào, nàng càng thấm thía sự mong manh của kiếp người, thấy sự nguy hiểm trong các dục và chỉ mong sự an tịnh trong đời sống viễn ly. Do vậy, nàng đã xuất gia với trưởng lão ni Gotamī, được hướng dẫn thiền quán, không lâu sau nàng đắc quả Bất Lai. Được sự cho phép của ni đoàn, qua sự chuẩn thuận của tỳ-khưu-ni Khemā nên tỳ-khưu-ni Subhā xin được sống và tu tập ở một ngôi làng sơn cước, trong những hang động phía nam núi Linh Thứu, tinh cần thiền quán để giải quyết bài toán sinh tử cuối cùng.

Tuy nhiên, dầu nỗ lực bao nhiêu, tinh tấn cách mấy, ước nguyện chơn chánh kia vẫn không đạt được. Có lẽ do thiếu năng lực ba-la-mật? Có lẽ có nghiệp xấu nào trong quá khứ mà nàng chưa trả xong? Có lẽ phải chờ đợi một nhân, một duyên nào nữa thì cái quả kia mới chín muồi? Đấy là những câu hỏi thường luẩn quẩn hiện ra trong tâm trí của vị ni thánh hạnh...

Nói đến ngang đây, tôn giả Sāriputta quay sang tỳ-khưu-ni Subhā :

- Tôi kể chuyện lại như thế, không biết là có điểm nào sai lầm hay thiếu sót, xin cô hãy hoan hỷ mà bổ khuyết cho?

Tỳ-khưu-ni Subha, chấp tay, cúi đầu nói :

- Không dám! Xin tri ân trưởng lão! Ngài kể lại không hề thiếu sót hay nghiêng lệch một điểm nào. Ngài lại còn như thấu suốt cả tâm tư, cả những vấn nghi của đệ tử nữa.

- Trong trạng thái tâm ấy, trên đường khất thực, khi hay tin đức Chánh Đẳng Giác đã trở về an cư mùa mưa năm nay tại Veḷuvanārāma; vì hoan hỷ quá, nên cô đã lặn lội đường xa tìm đến?

- Đúng là vậy, thưa trưởng lão!

- Để mong gặp đức Thế Tôn, xin ngài một chỉ giáo hay là một lời khuyên tối hậu ?

- Đúng là vậy, thưa trưởng lão!

Đến đây, tôn giả Moggallāni chợt mỉm cười :

- Bây giờ đến phần việc của cô, cô hãy kể lại lý do đi vào vườn xoài của thánh y Jīvaka, việc gặp chàng thanh niên hư hỏng, mất nết; và rồi sau đó, chuyện cô mạnh dạn móc con mắt đẹp của mình đem cho cái cậu du thủ, du thực kia!

- Thưa vâng, thưa trưởng lão!

Nói thế xong, tỳ-khưu-ni Subhā đảnh lễ đức Phật và hội chúng tỳ-khưu rồi kể lại câu chuyện của mình.

Sau đó, các vị kết tập sư đã thuật lại.

Sáng sớm tinh sương ngày kia, từ một hang động hẻo lánh phía nam dãy núi Linh Thứu, vượt thêm mấy ngọn đồi nữa thì trời đã khá trưa, tỳ-khưu-ni Subhā bèn đi khất thực mấy xóm nhà ven đường; khi thấy vật thực đã đủ dùng, cô bèn nhắm hướng vườn xoài của thánh y Jīvaka, những mong tìm chỗ yên tĩnh để độ thực và nghỉ trưa. Vị thánh ni nghĩ thầm, từ khi vườn xoài này đã được ông Jīvaka dâng cúng cho đức Phật và tăng chúng thì chắc ở đây lúc nào cũng có mặt chư vị tỳ-khưu. Tuy nhiên, cô ta sẽ không làm phiền các ngài, chỉ cần một góc yên tĩnh trong khu vườn là được rồi. Nhưng lạ, nhìn xuyên qua khu vườn, cô không thấy bóng dáng một ai. Rất hiu quạnh. Cô đoán là tăng chúng ở đây chắc là đã về hết Veḷuvanārāma để hầu đức Thế Tôn và nghe pháp rồi.

Thế là cô vẫn đi, chậm rãi, thung dung, nhàn thoát, vô sự, nghĩ rằng, không có ai lại càng tốt. Khi bước qua một khúc quanh thì cổng vườn xoài đã ở ngay trước tầm mắt. Cô nghĩ, ôi, khu rừng xoài của thánh y Jīvaka nổi tiếng là có cây xanh, bóng mát. Có suối hát, lá reo. Có bềnh bồng hương và bồng bềnh nắng ấm. Ôi! Một trú xứ thật tuyệt vời để thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả. Bất chợt như ma quỷ hiện hình, một bóng người đâu đó nhảy ra. Đấy là một thanh niên, con trai người thợ bạc, tướng mạo bảnh chọe, da trơn, mặt láng, ăn mặc diêm dúa, đang du gót lang thang. Y vốn là kẻ nổi tiếng điếm đàng, du côn, du đãng. Thấy nàng, một cô ni trẻ trung xinh đẹp, hắn bèn ngáng đường chận lại.

Tỳ-khưu-ni Subhā không hề sợ hãi, thụt lùi một bước, cất tiếng hỏi :

- Này này! Ngươi làm cái gì vậy? Ngươi không thấy ta là một nữ sa-môn sao?

- Thấy rõ, thấy rất rõ, thưa cô ni! Cô đẹp quá, hãy cho ta ngắm nhìn một lát cho mãn nhãn nào!

- Hỗn hào! Cô cố ý nói nặng lời, như đập thẳng vào thái độ vô lễ của chàng thanh niên - Cái bản mặt trơn tru, mày râu trau chuốt, bôi phấn thơm và da phết bóng thế kia, chứng tỏ ngươi là một chàng trai hư hỏng, quen thói trăng hoa lêu lổng! Hay xéo đi! Ta tởm lợm rồi đó!

Chàng thanh niên không giận, dù bị mắng; y vẫn đăm đắm ngắm nhìn nàng, miệng cười tươi như hoa nở, hai tay dang ra làm cho vị tỳ-khưu-ni không có đường tránh.

Biết là gặp phải một tay trân tráo, lì lợm, cô bèn thở ra, đưa đôi mắt biếc xanh, dịu hiền như mắt nai, rồi nói:

- Vậy thì này hỡi chàng thanh niên! Ta có gì sái quấy đã nào! Ta có gì lầm lỗi đã nào! Ta có gì không phải đã nào! Ta đã xúc phạm đến ngươi ở chỗ nào! Mà ngươi lại chận đường ta, một nữ ni phạm hạnh! Thật chẳng thích hợp chút nào! Thật chẳng phải lẽ chút nào! Thật chẳng ra thể thống, phép tắc, lễ nghi gì nữa, khi mà một người đàn ông, lại đụng đến một người nữ xuất gia, đã lựa chọn con đường rời xa các dục. Đấy là con đường trong sạch. Đấy là con đường thiêng liêng. Đấy là con đường không chút dơ uế, bợn nhơ(1). Sao ngươi lại dám cản đường ta, kẻ đã viễn ly sắc dục. Tâm ta thật thanh tịnh. Tâm ngươi không thanh tịnh. Ngươi đầy tham, đầy uế. Ta không tham, không uế! Hãy tỏ ra hiểu biết chút nào, này hỡi chàng trai, để ta còn đi công việc của mình!”

Chàng trai con người thợ kim hoàn nghe vậy, thay vì hổ thẹn, y lại say sưa cất lời tán tỉnh, giọng lời như thơ, như tiếng chim hót trong rừng cây xanh, rì rào hoa và hương:

- Ôi! Nàng trẻ trung và xinh đẹp xiết bao!

Sao lại phải bỏ nhà ra đi

Sao lại phải bỏ tuổi xuân để ra đi

Rồi xuất gia làm gì cho uổng phí!

Hãy quẳng áo cà-sa!

Và hãy đến đây cùng ta

Vào cánh rừng trổ đầy hoa kia

Mà tha hồ vui chơi trò chơi dục lạc!

Ôi! Nàng có thấy không!

Cây cối tỏa hương thơm kìa!

Thơm ngát ngào khắp mọi nơi

Chỉ cần một cơn gió nhẹ thoảng qua

Là đất trời tràn ngập phấn hoa

Báo hiệu mùa xuân bắt đầu

Ôi! Là mùa của hạnh phúc.

Là mùa của giao hoan dục lạc!

Nàng có nghe không?

Từng mầm cây, ngọn lá, đều cất tiếng thì thầm

Hoặc hát ca vui sướng, dâng tràn bao cảm xúc

Thế mà nàng lại thui thủi một mình

Lặng lẽ đi vào rừng

Không có bạn đồng hành

Thì lấy gì làm thích thú?

Nàng có biết không?

Rừng là nơi thanh vắng

Là nơi đầy kinh sợ

Những bầy thú lấp ló rình mồi

Chúng thường xuyên lui tới

Nào cọp, nào beo, nào sư tử

Lại còn có những con voi cái động cỡn

Rống lên gọi đực

Khiếp đảm, kinh hoàng!

Nàng có biết không ?

Nàng là con búp bê vàng chói

Nàng là tiên nữ vườn trời

Độc nhất vô nhị

Tuyệt mỹ trên thế gian

Nàng đắp lụa Kāsi

Mượt mà, bóng loáng

Duyên dáng, dịu dàng

Ta sống nô lệ nàng

Ta sẽ ngoan ngoãn phục dịch nàng

Không người nữ nào trên đời

Không một sanh loại nào trên đời

Mà ta yêu hơn nàng

Hỡi nàng mắt dịu hiền

Như mắt Kinnarī đa tình, quyến rũ

Nếu nàng theo lời ta

Sẽ sống tràn đầy hạnh phúc

Nơi một trú cư lộng lẫy

Trong tòa lâu đài rực rỡ

Có sự phục vụ ân cần

Của người hầu, thị nữ

Nàng khoác lụa mịn Kāsi

Có vòng hoa, bôi sáp đỏ

Ta làm nhiều trang sức

Bằng châu báu, ngọc ngà

Nhiều kiểu dáng phong phú và sang quý

Rồi nàng leo lên giường hoa

Được kiến tạo tuyệt mỹ vô cùng

Gồm những tấm gỗ chiên đàn

Có lõi thơm lừng lựng

Khéo che màn đẹp tinh sạch

Khéo dệt chăn mềm lông ngỗng

Khéo trải nệm lông cừu dài

Nàng như một búp sen xanh vươn lên từ nước

Chưa đụng tới bởi một người đàn ông nào

Bởi lẽ chỉ để dành cho thần linh

Chẳng có ai dám thưởng ngoạn

Nếu nàng sống phạm hạnh như vậy

Một cuộc đời giới đức như thế

Cũng tương tự như búp sen xanh kia

Chưa ai được thưởng thức

Tứ chi, thân thể nàng

Thon khỏe, trẻ trung

Trắng hồng, thơm tho và mềm mượt

Rồi sẽ trải qua thời gian

Yếu đau và nhăn nhúm

Bệnh hoạn và già lão

Co ro và cụm rụm

Thì quả thật là vô ích!

Thì quả thật là uổng phí của trời

Hỡi nữ vương sắc đẹp!

Nghe chàng trai ca ngợi, tán thán sắc đẹp nàng. Câu chữ như xoa dầu. Miệng lưỡi như bôi mỡ. Nàng bèn đáp rằng:

- Này hỡi chàng trai

Ở đây là cái gì nào

Nơi cái thân thể này

Mà ngươi xem là tuyệt mỹ?

Ta chỉ thấy lông và tóc

Ta chỉ thấy đờm dãi và phẩn

Nơi cái tứ đại này đây!

Mà một mai kia

La liệt nơi bãi tha ma

Thối tha và ghê tởm

Cái xác chết tan rữa

Ruồi nhặng và sâu kiến

Vậy ngươi thấy cái gì?

Ngươi thấy đẹp chỗ nào?

Nơi cái thân thể hôi hám này?

Khi ngươi thốt ra lời

Si mê, vô ý thức

Tán dương sắc đẹp ta?

Khi được hỏi vậy. Chàng trai con người thợ bạc chú mục và đăm đăm nhìn nàng. Quả thật dù nàng không trang điểm, mái tóc thanh xuân đã cắt bỏ đi rồi, nhưng mà sao nàng lại tuyệt đẹp đến thế. Chỉ cái liếc mắt đầu tiên nhìn nàng, chàng trai đã phải lòng rồi. Và yêu một cách thiết tha. Một cách say đắm. Bây giờ, rõ ràng là chàng trai bị hớp hồn bởi đôi mắt, bới ánh mắt. Nên hắn đáp:

- Ôi! Chính đôi mắt nàng

Trông tựa như mắt thỏ

Trông tựa như mắt nai

Trông tựa như mắt gà mái

Chỉ nhìn thấy đôi mắt ấy thôi

Dục lạc ta tăng trưởng

Ham muốn lại dâng trào!

Ôi! Con mắt nơi gương mặt nàng

Sáng chói như vàng ròng

Sánh tựa búp sen xanh

Vô uế, vô tỳ vết

Chỉ nhìn thấy con mắt nàng

Dục lạc ta tăng trưởng

Ham muốn lại dâng trào!

Cho dù nàng đi đâu xa

Ta vẫn nhớ, vẫn hình dung

Cặp lông mi đen dài

Không gì ta yêu hơn

Không gì ta si hơn

Ánh mắt tuyệt trần ấy.

Chàng thanh niên nói miên man, nói mê man ca tụng ánh mắt, con mắt, lông mi. Và có lẽ cậu ta cũng điên đảo, điên loạn, chết ngộp trong đôi mắt của vị nữ ni. Nên nàng đưa ra những lời nhắc nhở, ngôn lời dịu dàng những mong khêu lên một ngọn đèn trong tâm trí tối ám của chàng thanh niên:

- Này hỡi chàng trai!

Ngươi đã đi theo con đường xấu quấy

Ngươi lại ham muốn ta

Lại mong ước ta

Khi ta đã là con gái của đức Phật

Con gái đích thực của đấng Giác Ngộ

Sao ngươi không đi tìm

Những cô gái khác trên thế gian

Thế là ngươi đã đi vào tà đạo

Tà đạo thì nguy hiểm

Vì phủ đầy chông gai

Ngươi không sợ hãi ư?

Chánh đạo thì vững chắc

Thẳng tắp và an toàn

Nhưng ngươi lại bỏ qua

Ngươi muốn tìm mặt trăng mà chơi

Ngươi muốn nhảy qua núi Mê-ru

Đấy là cái cách mà ngươi

Do điên loạn và ngu ngốc

Muốn tìm đến ta đó!

Nhà ngươi có biết không

Trên đời này, cõi trời

Bất kỳ thế giới nào

Ta không còn ước muốn

Ta không thích tham ái

Dẫu chúng là đối tượng nào

Khi thánh đạo khởi lên

Sẽ tiêu diệt cả thảy

Giết hại tận gốc rễ

Cả dây leo, tua uốn!

Ta muốn như vậy đó!

Giống như ngọn lửa hừng

Nhảy khỏi đống than đỏ

Chỉ còn lại tàn tro

Ta muốn như vậy đó!

Tựa như bát thuốc độc

Bị ngọn lửa thiêu đốt

Khô cạn chẳng còn gì

Khi thánh đạo khởi lên

Chúng sẽ bị tống khứ

Chúng sẽ bị hủy diệt

Ta muốn như vậy đó!

Và này, hỡi chàng trai

Có thể có nữ nhân

Dầu xuất gia theo Phật

Nhưng không học giáo pháp

Không hành theo giáo pháp

Không thấy rõ ngũ uẩn

Không ghê sợ dục trần

Không am hiểu thấu đáo

Không quan sát kỹ càng

Bị ái tham chi phối

Bị dục lạc chi phối

Thì ngươi hãy quyến rũ

Hãy cám dỗ người ấy

Hãy mê hoặc người ấy

Làm hại được người ấy!

Còn ta thì sao nào

Ta đã có học tập

Ta đã có thực hành

Ta lại khéo quan sát

Thấy rõ nhân và quả

Nếu ngươi tìm cách quyến rũ ta

Thì ngươi chỉ chuốc lấy sầu khổ

Cả bây giờ và cả tương lai!

Là con gái của đức Phật

Là con gái của đức Chánh Đẳng Giác

Ta thường trực chánh niệm

Ta thường trực tỉnh giác

Thấy rõ trò múa rối

Của tưởng tri và ảo vọng

Thấy mắng nhiếc và khen thưởng

Hoặc lăng nhục, kính trọng

Thấy hạnh phúc và đau khổ

Hoặc khoái lạc, khó chịu

Chỉ là cặp phạm trù tương đãi

Hữu vi và vô thường

Là bóng chớp, bọt nổi

Trong ba cõi, bốn loài

Là cấu uế, lậu hoặc

Đều sầu bi, ưu não

Nơi những sanh hữu ấy

Thật chúng chẳng có gì

Cũng chẳng có điều gì

Để tâm ta dính mắc

Để tâm ta chấp thủ

Ta là đệ tử ni

Con gái đức Thiện Thệ

Ta đã dấn thân bước

Ta đang di chuyển theo

Trên đường đạo tám ngành

Mũi tên đã được rút ra

Vô bệnh, vô tỳ vết

Tâm tràn đầy an hỷ

Nơi trú xứ thanh tịnh

Và này chàng thanh niên

Ngươi bảo ta là búp bê vàng chói

Búp bê ấy là gì nào

Mà khéo tô, khéo vẽ

Khéo sơn quét, điểm trang

Những con rối bằng gỗ

Có những khúc cây được cột vào

Bởi những sợi dây kết buộc

Cũng có tay, có chân

Có thân thể, mặt mũi

Thế rồi, những vũ nữ

Được kéo vào, thả ra

Nó nhảy múa, lắc lư

Nhiều dáng vẻ khác nhau

Nhiều kiểu cách khác nhau

Yểu điệu và mê ly

Tất là được hình thành

Do sự kết hợp ấy

Bây giờ, này chàng trai

Nếu gỗ được tháo rời

Dây que ấy được rút

Nếu cây hết gắn, buộc

Nối kết bị loại bỏ

Búp bê sẽ không còn

Múa rối rồi cũng dứt

Chẳng còn gì nữa cả

Vậy ngươi say đắm ở chỗ nào

Thân ta đây cũng vậy

Do bốn đại kết hợp

Đến khi chúng rã tan

Chẳng còn gì nữa cả

Vậy ngươi say đắm ở chỗ nào?

Ngươi bảo ta là tiên nữ nhà trời

Là do ngươi tự vẽ

Do tâm ý say đắm

Do tâm ý mê tưởng

Chỉ là hình vẽ thôi

Như hình vẽ trên tường

Nó giống như ảo mộng

Nó giống như ảo giác

Nó giống như ảo thuật

Như cây vàng trong mộng

Như bóng nước sa mạc

Mù lòa ngươi chạy theo

Cái trống không, không thực

Chẳng có gì ở đấy cả!

Ngươi tán dương ta đẹp

Mắt gà mái, mắt nai

Cũng do ngươi vẽ ra

Vẽ ra và tưởng tượng

Đôi mắt ta ấy à!

Chỉ là cục bi tròn

Đặt vào trong hốc mắt

Một lỗ trống bộng cây

Nó rỉ ra nước mắt

Nó tiết ra cứt ghèn

Dơ uế và hôi hám

Thế mà này, chàng trai

Ngươi lại khen đôi mắt

Ngươi lại si đôi mắt

Do nó ngươi mê cuồng

Do nó ngươi say đắm

Nhưng nó, đối với ta

Chỉ để nhìn và thấy

Vậy thì đối với ta

Nếu nó đẹp, nó xinh

Đã làm ngươi mê mẩn

Vậy là, nó sinh ra tội lỗi

Giờ ta sẽ cho ngươi

Con mắt ‘tuyệt vời’ ấy!

Nói thế xong, vị ni phạm hạnh, với tâm không chấp trước, với tâm rất thản nhiên, bóc một con mắt đẹp, trao cho chàng thanh niên. Và nói:

- Hãy cầm lấy

Này hỡi chàng trai!

Con mắt ô uế này

Rồi đi đâu cho khuất mắt!

Chàng trai du đãng thấy vậy, toát mồ hôi, kinh hoàng. Thân tâm đều bủn rủn. Khi ấy, ái luyến liền tiêu vong, dục tham trốn đi đâu mất. Hắn khẩn cầu xin lỗi, có vẻ vô cùng hối lỗi:

- Mong rằng phạm hạnh ni

Được an ổn trở lại

Ta sẽ không còn dám

Xúc phạm thế này nữa

Tội lỗi ta đã làm

Chẳng khác ôm lửa hừng

Như thể nắm rắn độc

Ta sẽ bị quả báo

Mong người hãy tha thứ!

Thoát khỏi bị xúc phạm, như không có gì xảy ra, tỳ-khưu-ni Subhā đi vào vườn xoài, dùng định lực trấn giữ cơn đau, lấy lá mát đắp vào, cột lại vết thương cho đỡ chảy máu. Sau khi độ thực, vị thánh ni đến Veḷuvanārāma tịnh xá; và rồi chuyện gì xảy ra như chúng ta đã biết.

Tên của cô, và câu chuyện này, sau này, do liên hệ với vườn xoài của thánh y Jīvaka nên được các vị kết tập sư gọi là Subhā Jīvakambavanika(1).


(1)Theo “ Dictionary Pāḷi Proper Names”.

(2)Cách nói khác về Tứ vô ngại giải.

(1)Subha có nghia là đẹp đẽ, chói sáng, thịnh vượng, may mắn, vui vẻ... Ghi theo “Subhā ở rừng xoài Jīvaka” (Therī,150).

(1)Những ghi chú và những phóng tác này là dựa theo “ Chú giải Trưởng lão Ni kệ” của William Pruit, bản Việt ngữ của tỳ-khưu Siêu Minh - NXB tổng hợp Tp. HCM, phát hành năm 2008.

(1)Xem Thig. vss. 366-399; Thig A. 245f.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4672)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6596)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4827)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10074)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3603)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4811)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5036)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7499)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4208)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13429)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]