Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

59. Đại cương tu Phật

02/03/201422:01(Xem: 19408)
59. Đại cương tu Phật
phatthichca2

Sự Tích Đức Phật Thích Ca
Soạn giả : Minh Thiện Trần Hữu Danh

(Ấn bản 09/2010, có hiệu chính và bổ túc)

7- Đại cương tu Phật :

3 tông phái lớn trong đạo Phật

1- Thiền tông: Hiện nay Thiền tông có hai dòng chánh là Như Lai Thiềncủa Nam tông và Tổ Sư Thiềncủa Bắc tông. Pháp môn Thiền được gọi là Thiền-na (Jhàna, Dhyàna), còn có thể gọi là Thiền (Zen); Trung Hoa dịch là Tĩnh-lự, nghĩa là yên lặng suy nghĩ. Thiền có hai phần chính là Chỉ (Samatha)Quán (Vipassanà). Nếu đi vào chi tiết thực hành thì có 6 phần là Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh, gọi là Lục Diệu Pháp Môn.

a)- Như Lai Thiềncủa Phật Giáo Nguyên Thủy là phương pháp thiền theo như đức Phật đã học, thực hành và giảng dạy. Như Lai Thiền giúp hành giả diệt trừ 5 triền cái (tham, sân, hôn trầm, trạo cử, hoài nghi), thực tập 5 thiền chi (tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm), rồi tiến tu từng cấp bậc từ Sơ-thiền đến Diệt-thọ-tưởng.

Người tu theo Như Lai Thiền thường thực hành các pháp môn :

Sổ tức(Ànàpàna-sati) : Tập trung ý-thức vào việc đếm hơi thở ra vào. Pháp môn này giúp thân tâm thanh tịnh.

Tùy tức(Ànàpàna-sati) : Tập trung ý-thức theo dõi hơi thở ra vào tự nhiên. Pháp môn này giúp thân tâm an lạc.

Chỉ hay Thiền vắng lặng(Samatha) : Thực hành định tâm bằng cách tập-trung tinh thần vào một nơitrên cơ thể như đỉnh đầu, tam tinh, chóp mũi, tim, rốn, lòng bàn tay ... Pháp môn này nhằm phát triển định lực.

Quán hay Thiền minh sát(Vipassanà) : Trừ vọng tưởng và phiền não trong tâm bằng cách quán sátđể thấy rõ sự sanh trụ dị diệt của một vật hay một hiện-tượng tâm-lý, để thấy rõ thật tướng, thật tánh, thật thể của nó, để thấy rõ vạn vật đều vô thường, vô ngã, vắng lặng. Pháp môn này nhằm phát triển trí tuệ.

Thiền ngoại định(Kasina) : Tập trung hoàn toàn tinh thần vào một đối tượng bên ngoàinhư đất, nước, gió, lửa, màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, bầu trời hay không gian, ánh sáng hay trí tuệ (có 10 đối tượng quán) cho đến khi đối tượng đó trở thành một định tướng (nimitta), khi nhắm mắt lại vẫn thấy lờ mờ hình ảnh vật đó, đó là sơ tướng (parikamma nimitta). Lần hồi hình ảnh đó hiện rõ ràng hơn, đó là học tướng (uggaha nimitta). Cho đến khi hình ảnh đó sáng tỏ và loan rộng cùng khắp mọi nơi, đó là tợ tướng (patibhaga nimitta). Quán biết rằng tất cả mọi vật đều chu biến khắp pháp giới. Pháp môn này làm tăng trưởng định lực (upacara-samàdhi), giúp thiền giả diệt trừ sáu thức, đạt đến tứ thiền và ngũ thông. (Xem Vocabulaire Pali-Français des Termes Bouddhiques, trang 101-102; Buddhist Legends, quyển 1, trang 21-22).

b)- Tổ Sư Thiềncủa Phật Giáo Đại Thừa bắt đầu từ Sơ Tổ Bodhidharma (Bồ Đề Đạt Ma) tại Trung Hoa. Ngài chủ trương :

"Giáo ngoại biệt truyền,

"Bất lập văn tự,

"Trực chỉ nhân Tâm,

"Kiến tánh thành Phật.

Muốn tu pháp môn này cần phải thọ giáo với một Thiền sư đã chứng đắc, thường hướng dẫn thiền sinh bằng những phương pháp đặc biệt như la hét, đánh đập, bắt quét lá ..., hoặc bằng một cử chỉ hoặc lời nói ngắn gọn gọi là công án hay thoại đầu, nhằm kích khởi trực giác nằm sâu trong tâm thức của thiền sinh, giúp thiền sinh trực nhận Chân lý. Tổ Sư Thiền thường khơi động một mối nghi (nghi-tình) sâu đậm trong tâm thức của thiền sinh, làm cho thiền sinh phải thao thức mãi với mối nghi đó (để trừ vọng tưởng và phiền não); đến khi tâm thức của thiền sinh đã chín muồi, ông Thầy chỉ cần phát hiện một động tác hay một lời nói cũng đủ làm cho thiền sinh bừng ngộ (kiến tánh).

2- Mật tông: Thực hành các pháp môn :

Thần chú (Mantra): Thường đọc thần chú (mật ngữ) để giữ tâm thanh tịnh.

Mật ấn (Mudra): Thực hành những tư thế đặc biệt của hai tay (bắt ấn), vừa đọc thần chú, vừa nghĩ tưởng đến các vị Phật hay Bồ tát, để thân miệng ý hợp nhất trong đại định Kim Cang.

Thiền ngoại định (Kasina): Như đã giảng ở phần Thiền tông.

3- Tịnh Độ tông: Thực hành Tín thâm, Nguyện thiết, Hành chuyên, bằng các pháp môn :

Niệm Phật (Buddhanussati): Miệng niệm Phật A Di Đà, tay lần chuỗi, tâm quán tưởng Phật A Di Đà và nguyện thác sanh về cõi Tịnh Độ.

Niệm Pháp (Dhammanussati): Thường đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ Phật, kinh Quán Phật Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà.

Niệm Tăng (Sanghanussati): Thường cung kính cúng dường chư Tăng Ni để gieo nhân lành, tăng trưởng phước đức.

37 pháp tu căn bản

(37 phẩm trợ đạo, bodhipakkhika dhamma)

4 đề tài thiền quán(Tứ Niệm Xứ) :

1- Thân bất tịnh: Quán chiếu 32 thành phần của cơ thể, 9 giai đoạn tàn hoại của cơ thể, để thấy rõ thân người đầy chất dơ bẩn, hôi thúi, không có gì đáng quý trọng. Pháp môn này nhằm trừ tham dục, trừ chấp thân là ngã, trừ ngã ái.

2- Thọ là khổ: Quán chiếu để thấy rằng mọi cảm giác sướng, khổ, hoặc không sướng không khổ, rốt cuộc cũng đều làm phát sanh phiền não và đau khổ không nhiều thì ít. Pháp môn này nhằm trừ tham, ái và thủ.

3- Tâm vô thường: Quán chiếu để thấy rằng tâm con người luôn luôn biến chuyển, khi vui khi buồn, khi hòa khi giận, không có gì là thường tại. Pháp môn này nhằm trừ chấp tâm là ngã, là trường tồn.

4- Pháp vô ngã: Quán chiếu để thấy rằng tất cả mọi sự vật đều vô thường, biến đổi luôn theo các chu kỳ thành trụ hoại không, không có yếu tố nào là thường tại gọi là ngã để có thể nắm giữ được. Pháp môn này nhằm mở mang trí tuệ và trừ lòng ham muốn.

4 điều phải siêng năng thực hành(Tứ Chánh Cần) :

1- Năng làm xuất hiện các pháp lành chưa sanh.

2- Năng làm lớn mạnh các pháp lành đã sanh.

3- Năng diệt trừ các pháp ác đã sanh.

4- Năng ngăn chận các pháp ác chưa sanh.

4 điều cần thực hiện đầy đủ, đến nơi đến chốn(Tứ Như Ý Túc) :

1- Dục như ý túc: Muốn làm điều lành, trừ điều ác thì hãy làm cho đến nơi đến chốn.

2- Niệm như ý túc: Ghi nhớ Chánh Pháp một cách đúng đắn và đầy đủ.

3- Tinh tấn như ý túc: Siêng năng tu tập cho đến nơi đến chốn.

4- Tư duy như ý túc: Suy nghĩ về điều gì cũng phải suy nghĩ cho đến nơi đến chốn.

5 căn lành cần nuôi dưỡng(Ngũ Căn) :

1- Tín căn: Kính tin Tam Bảo và Chánh Pháp.

2- Tấn căn: Tinh tấn tu tập pháp môn đã chọn.

3- Niệm căn: Luôn luôn nhớ nghĩ đến Chánh Pháp và Tam Bảo.

4- Định căn: Thực hành Thiền Vắng Lặng để tâm không loạn động.

5- Tuệ căn: Thực hành Thiền Minh Sát để biết rõ Chơn Tâm, Chơn Lý.

5 sức mạnh trong việc tu tập(Ngũ Lực) :

Khi nuôi dưỡng đúng mức, 5 căn lành sẽ trở thành 5 sức mạnh trong việc tu tập.

1- Tín lực: Sức mạnh của đức tin sau khi đã hiểu rõ.

2- Tấn lực: Sức mạnh của ý chí tinh tấn tu tập.

3- Niệm lực: Sức mạnh của trí nhớ Chánh Pháp.

4- Định lực: Sức mạnh của tâm thiền định.

5- Tuệ lực: Sức mạnh của trí tuệ bát-nhã.

7 giai đoạn tu hành(Thất Giác Chi) :

1- Niệm: Học hỏi giáo lý để ghi nhớ Chánh Pháp và các pháp môn tu liên hệ đến viễn ly, ly tham, đoạn diệt, hướng đến từ bỏ.

2- Trạch pháp: Sáng suốt chọn lựa pháp môn tu tập hợp với khả năng mình. Biết các pháp liên hệ đến viễn ly, ly tham, đoạn diệt, hướng đến từ bỏ là nên làm. Biết các pháp làm sanh trưởng tham, sân, hôn trầm, trạo cử, hoài nghi là phải dứt trừ.

3- Tinh tấn: Siêng năng tu tập pháp môn đã chọn.

4- Hỷ: Khởi tâm vui mừng nhận thấy việc tu tập có kết quả tốt đẹp.

5- Khinh an: Tâm vui vẻ, nhẹ nhàng, an ổn.

6- Định: Tu thiền định, tâm không tán loạn.

7- Xả: Tu xả, giữ tâm thanh tịnh, vắng lặng, bình đẳng, không chấp trước.

8 thánh đạo(Bát Chánh Đạo, hay Bát Thánh Đạo) :

1- Chánh kiến: Nhận thức chân chánh để biết rõ vạn vật đều vô thường và vô ngã, biết đời sống dẫy đầy đau khổ, biết vô minh và tham ái là nguyên nhân của khổ, phá vô minh trừ tham ái thì có được đời sống an lành hạnh phúc, biết các việc thiện nên làm và các việc ác nên tránh, biết Chánh Pháp là phương pháp phá vô minh trừ tham ái để được an lạc thanh tịnh.

2- Chánh tư duy: Suy nghĩ chân chánh để hiểu rõ Tứ Diệu Đế và 12 Nhân Duyên. tìm cách diệt khổ cho mình và cho mọi người, để mang đến hạnh phúc chân thật cho mình và cho mọi người.

3- Chánh ngữ: Nói lời hòa nhã, đúng sự thật, đúng Chánh Pháp, để mang đến hạnh phúc cho mọi người.

4- Chánh nghiệp: Hành động đúng Chánh Pháp, lợi mình lợi người; giữ cho ba nghiệp thân khẩu ý được thanh tịnh.

5- Chánh mạng: Hành nghề sinh sống đúng Chánh Pháp, lợi mình lợi người; tránh sát sanh, buôn bán ma túy hay vũ khí, sang đoạt của người.

6- Chánh tinh tấn: Siêng năng tu tập theo Chánh Pháp, làm điều lành, tránh điều ác.

7- Chánh niệm: Tâm thâm nhập Chánh Pháp, luôn luôn ghi nhớ các điều lành nên làm, nhớ các điều ác nên tránh.

8- Chánh định: An trú trong Chánh Pháp, siêng năng tu tập thiền định, tránh loạn tưởng, loạn động.

Tu 8 Thánh đạo đưa đến 4 Thánh quả như sau :

Tu-đà-hoàn(Sotàpatti): Thành đạt Chánh kiến và Chánh tư-duy. Đã đoạn trừ ba kiết sử là thân kiến, giới cấm thủ và hoài nghi.

Tư-đà-hàm(Sakadàgàmi): Thành đạt Chánh ngữ và Chánh nghiệp. Đã đoạn trừ ba kiết sử là thân kiến, giới cấm thủ, hoài nghi và đã giảm nhẹ tham, sân, si.

A-na-hàm(Anàgàmi): Thành đạt Chánh mạng và Chánh tinh tấn. Đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử là tham, sân, thân kiến, giới cấm thủ, hoài nghi.

A-la-hán(Arahattà): Thành đạt Chánh niệm và Chánh định. Đã đoạn trừ năm thượng phần kiết sử là sắc ái, vô sắc ái, trạo cử, ngã mạn, vô minh. Được hoàn toàn giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.

6 pháp tu của Bồ tát

(Lục độ hay 6 Ba-la-mật)

1- Bố thí: Các vị Bồ tát đã biết rõ tất cả sự vật đều vô thường và vô ngã nên nguyện thực hành bố thí rốt ráo đến khi không còn thấy có gì là mình hay của mình nữa. Bố thí là Không Chấp Có.

2- Trì giới: Các vị Bồ tát nguyện thực hành 3 Tụ Giới đại thừa là đoạn trừ tất cả các điều ác, thực hành tất cả các điều lành, nhiếp độ tất cả chúng sanh. Trì giới là giữ thân, khẩu, ý thanh tịnh.

3- Nhẫn nhục: Các vị Bồ tát nguyện thực hành tâm bình đẳng, tận diệt ngã mạn và sân hận, được tâm nhẫn nhục tam muội. Nhẫn nhục là Không Chấp Ngã.

4- Tinh tấn: Các vị Bồ tát nguyện suốt đời siêng năng thực hành 5 pháp môn bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ. Tinh tấn là Không Chấp Không.

5-Thiền định: Các vị Bồ tát nguyện đoạn trừ tất cả phiền não và vọng tưởng, tu rốt ráo căn viên thông, đến khi tâm được hoàn toàn thanh tịnh. Thiền định là tâm bình đẳng Không Phân Biệt.

6- Trí tuệ: Các vị Bồ tát nguyện thực hành Thiền minh sát đến khi rốt ráo đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trí tuệ là biết tất cả mà Không Vướng Mắc.

Tu Lục độ đưa đến các quả vị như sau :

Thập Tín: Thấm nhuần hạnh Bố thí.

Thập Trụ: Thấm nhuần hạnh Trì giới.

Thập Hạnh: Thấm nhuần hạnh Nhẫn nhục.

Thập Hồi-hướng: Thấm nhuần hạnh Tinh tấn.

Tứ Gia-hạnh: Thấm nhuần hạnh Thiền định.

Thập Địa: Trí tuệ phát sáng.

4 pháp tu của Đại Bồ tát

(4 tâm vô lượng)

1- Từ (mettà, maitrya): Sẵn sàng ban vui cho tất cả chúng sanh.

2- Bi (karunà): Sẵn sàng cứu khổ cho tất cả chúng sanh.

3- Hỷ (mudità): Vui khi thấy chúng sanh hết khổ được vui.

4- Xả (upekkhà): Tâm luôn luôn an lạc, thanh tịnh, bình đẳng, không phân biệt, không cố chấp.

Từ Bi Hỷ Xả là tâm rộng lớn vô biên của bậc Thánh nhân đã chứng được vô ngã nên cảm thông với tất cả tâm trạng khổ vui của chúng sanh. Tâm luôn luôn an lạc, thanh tịnh, bình đẳng, tùy duyên hoá độ chúng sanh mà không hề thấy có người độ và chúng sanh được độ.

Từ Bi Hỷ Xả là Chơn Tâm thường, lạc, ngã, tịnh.

Từ Bi Hỷ Xả là Niết Bàn an lạc, thanh tịnh của tất cả muôn loài.


Thứ lớp tu chứng trong đạo Phật

Các cảnh giới theo đạo Phật[1]

(25 cõi luân hồi)

Cõi Dục (Kàmaloka):

1- Địa ngục (Niraya)

- Ngạ quỷ (Peta yoni)

- Súc sanh (Tiracchana yoni)

2 - Người (Manussa)

3- A-tu-la (Asura yoni)

4- Tứ Đại Thiên Vương (Càtum-mahà-ràjika)

5- Đao Lợi thiên (Tàvatimsa)

6- Dạ-ma thiên (Yama)

7- Đâu Suất-đà thiên (Tusita)

8- Hóa lạc thiên (Nimmanarati)

9- Tha-hóa-tự tại thiên (Paranimmitavàsavatti)

Cõi Sắc (Rùpaloka):

Sơ thiền: 10- Phạm Chúng Thiên (Brahmà Parisajja)

11- Phạm Phụ Thiên (Brahmà Purohita)

12- Đại Phạm Thiên (Mahà Brahmà)

Nhị thiền: 13- Thiểu Quang Thiên (Parittabha)

14- Vô Lượng Quang Thiên (Appamanabha)

15- Quang Âm Thiên (Abhassara)

Tam thiền: 16- Thiểu Tịnh Thiên (Parittasubha)

17- Vô Lượng Tịnh Thiên (Appamanasubha)

18- Biến Tịnh Thiên (Subhakinha)

Tứ thiền: 19- Quảng Quả Thiên (Vehapphala)

20- Vô Tưởng Thiên (Asanna)

21- Tịnh Cư Thiên (Suddhàvàsa) :

- Vô Nhiệt Thiên (Atapa)

- Vô Phiền Thiên (Aviha)

- Thiện Hiện Thiên (Sudassa)

- Thiện Kiến Thiên (Sudassana)

- Sắc Cứu Cánh Thiên (Akanittha)

Cõi Vô Sắc (Arùpaloka):

22- Không Vô Biên Xứ Thiên (Akasanansa-yatana)

23- Thức Vô Biên Xứ Thiên (Vinnànanca-yatana)

24- Vô Sở Hữu Xứ Thiên (Akincanna-yatana)

25- Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên (N'eva sanna nasanna yatana)

Cõi Niết bàn (Mahà-pari-nibbàna):

Là cõi Phật, cõi Diệt Thọ Tưởng Định (Nirodha-Samàpatti), ở khắp mọi nơi.

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo.



[1]Xem Tăng Chi Bộ, chương 9 pháp, kinh 24: Các loài Hữu tình; chương 3 pháp, kinh 70: Các lễ Uposatha.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/06/2019(Xem: 5389)
Cụ Rùa 100 tuổi ăn chay và nghe kinh Phật trong chùa ở miền Tây, Việt Nam Chùa Phước Kiển tọa lạc ở huyện Châu Thành, Đồng Tháp nổi tiếng với chuyện ly kỳ về các cụ rùa hơn 100 tuổi thích ngủ mùng, ăn chay và nghe kinh Phật. Phước Kiển Tự (chùa Phước Kiển, hay còn gọi là chùa Lá Sen) tọa lạc ở huyện Châu Thành, Đồng Tháp có lối kiến trúc đơn giản. Chùa khá nhỏ bé nhưng có lịch sử lâu đời.
08/06/2019(Xem: 5527)
HC Andersen Truyện Kể - Tâm Trí Lê Hữu Khải
25/05/2019(Xem: 9660)
Nhân ngày giỗ Tổ năm nay, tôi được Thượng tọa Thích Minh Hiền, Trụ trì Tùng lâm Hương Tích cho biết rằng, mùa an cư năm nay, Kỷ hợi, 2019, Thường trực Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo thành phố Hà Nội đã quyết định giảng bộ sách TRUY MÔN CẢNH HUẤNtại các trường Hạ trên toàn thành phố. Với túc duyên này, chư Tăng Tùng lâm Hương tích và Phật tử Đạo tràng Chân Tịnh chùa Hương đã biên tập và ấn tống tái bản lần thứ hai sách Truy Môn Cảnh Huấn để cúng dàng Chư tôn đức Tăng Ni trong 18 Hạ trường của Phật giáo Thủ đô.
20/05/2019(Xem: 4180)
Truyện Thạch Sanh Lý Thông có liên hệ gì với tư tưởng Phật giáo? Nơi đây, chúng ta thử suy nghĩ về chủ đề này, trong dịp Giáo sư Nguyễn Văn Sâm biên dịch, chú giải và ấn hành Truyện Thơ Thạch Sanh Lý Thông. Truyện cổ tích Thạch Sanh Lý Thông được kể qua văn học truyền khẩu nhiều thế kỷ trước khi xuất hiện truyện thơ cùng tên. Thường được gọi tắt là truyện Thạch Sanh. Do vì xuất sinh từ văn học truyền khẩu, nên có nhiều phiên bản khác nhau.
15/05/2019(Xem: 4374)
Những tiếng gọi chậm rãi, ân cần, chợt vọng lên từ đáy lòng sâu thẳm khi thời công phu khuya vừa dứt. Những tiếng gọi hòa quyện vào nhau, nhịp nhàng đồng điệu như một bản hòa tấu. Tiếng gọi của Hồn Thiêng Sông Núi, của Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, của những vị ân sư đã đến rồi đi, đang còn rồi sẽ mất, của những ngôi chùa làng quê, của giòng sông, của vách núi …. Tất cả, như những âm thanh vọng từ cõi tâm hương nào, tuy nghìn trùng mà như gang tấc, tưởng chiêm bao mà như hiện thực đâu đây … Những âm thanh đó đã khiến thời công phu khuya dường như bất tận, để khi ánh dương lên, tôi biết, tôi sẽ phải làm gì. Đứng lên.
03/05/2019(Xem: 5160)
Thuở xưa nước Tỳ-xá-ly, Đất thơm in dấu từ bi Phật-đà. Có rừng cổ thụ ta-la, Một chiều chim rộn trong hoa hát mừng. Tay Phật cầm nhánh lan rừng Quay sang phía hữu bảo rằng “A-nan! Đạo ta như khói chiên đàn, Mười phương pháp giới tỉnh hàng nhân thiên.
01/05/2019(Xem: 3893)
Hôm nay là ngày 30.04.2019, ai trong chúng ta không nhớ đến ngày 30.04.75 cái ngày đen tối nhất trong lịch sử đất nước, ngày mà mọi người hoảng loạn vì tỵ nạn cộng sản, ai cũng tìm đường ra đi bằng mọi cách nhất là những người đã sống với cộng sản sau ngày Cộng sản tràn về Hà Nội, tuyên bố Độc Lập, thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa, cái mỹ từ đó nghe quá đẹp đẽ nhưng đằng sau đó lại là những áp bức bất công đầy dẫy, để san bằng giai cấp cộng sản đã không từ cái gì cả, mọi người tố cáo nhau để dành quyền lợi, cả xã hội đảo lộn vì họ chỉ tin vào lý thuyết duy vật, vô thần và trong đầu mọi người Đáng Cộng sản chỉ nhồi sọ một thứ ảo tưởng xa vời là tiến lên một xã hội công bằng, đẹp đẽ, mọi người đều có quyền lợi ngang nhau, không ai được phép giàu hơn ai cả nên họ tẩy não mọi người nhất là tầng lớp tiểu tư sản mà họ cho là luôn ăn trên ngồi trước mọi người, cũng vì vậy mà có cuộc di tản 1954 từ Bắc vào Nam của những người dân Miền Bắc.
15/04/2019(Xem: 4306)
Gần đây khi tiếp xúc với một số bạn đồng cảnh ngộ , bạn tôi thường cười đùa với nhau và đôi khi ôm chầm lấy tôi và nói thì thầm vào tai tôi " đời người chính là sự cô đơn, khi mình càng hiểu ra được điều này sớm bao nhiêu thì càng dễ tìm được hạnh phúc bấy nhiêu." . Một đôi khi cô bạn còn cười khúc khích đánh mạnh vào vai tôi rồi nói " hơn thế nữa, bạn thân tôi ơi , bạn có biết không cô đơn thực ra là một trạng thái cuộc sống cao cấp hơn thôi, bởi nó dạy bạn cách quan tâm, chăm sóc hơn đến nội tâm của mình một cách chu đáo và cẩn thận hơn "
14/04/2019(Xem: 6209)
Hòa Thượng THÍCH NHƯ ĐIỂN Mối Tơ Vương của Huyền Trân Công Chúa (Phóng tác lịch sử tiểu thuyết vào cuối đời Lý đầu đời Trần) Phật lịch 2.562 – Mậu Tuất 2018 Xuất bản năm 2018 - Xin vô vàn niệm ân tất cả những ai đã quan tâm đến tác phẩm nầy trong nhiều năm tháng qua, khi tôi có dịp giới thiệu với quý vị ở đâu đó qua những buổi giảng, hay những câu chuyện bên lề của một cuộc hội thoại nào đó. Tuy nhiên vẫn có một số vị vẫn muốn biết vì sao tôi viết tác phẩm phóng tác lịch sử tiểu thuyết nầy. Dĩ nhiên là không nói ra, khi xem sách hay xem tuồng cải lương nầy do soạn giả Giác Đạo Dương Kinh Thành ở Việt Nam biên soạn thì độc giả sẽ hiểu nhiều hơn, nhưng có nhiều vị xem dùm tôi trước khi in ấn đều mong rằng nên có lời dẫn nhập để tác phẩm nầy hoàn chỉnh hơn. Đây là lý do để tôi viết những dòng chữ nầy.
14/04/2019(Xem: 7917)
Một chàng vượt biển đi xa Thuyền qua ngọn sóng bất ngờ đánh rơi Chén bằng bạc quý sáng ngời Chén rơi xuống biển và rồi chìm sâu Chàng bèn làm dấu thật mau Hông thuyền ghi lại để sau dễ tìm Rồi chàng tiếp tục chèo thuyền Trong tâm tự nghĩ: “Nào quên dễ gì
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]