Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

53. Kiết tập kinh điển

02/03/201421:49(Xem: 19528)
53. Kiết tập kinh điển
phatthichca2

Sự Tích Đức Phật Thích Ca
Soạn giả : Minh Thiện Trần Hữu Danh

(Ấn bản 09/2010, có hiệu chính và bổ túc)


PHỤ ĐÍNH :

1- Kiết tập[1]kinh điển :

Kiết tập kinh điển lần thứ nhất tại Ràjagaha (năm -544)[2]

Chưa đầy một tháng sau ngày Phật nhập niết bàn, vào năm thứ 10 triều vua Ajàtasattu, Thượng tọa Mahà Kassapaquyết định triệu tập đại hội các vị khất sĩ về thủ đô Ràjagaha (Vương Xá) để ôn tụng tất cả những Kinh (sutta, sutra) và Luật (vinaya) của Phật đã dạy. Đại hội gồm có 500 vị khất sĩ có thật tu và thật chứng (quả vị A-la-hán) được lựa chọn trong Giáo Đoàn Khất Sĩ. Đại hội sẽ khai mạc vào đầu mùa an cư tới, mùa an cư thứ 46, năm 544 trước tây lịch, và sẽ kéo dài trong sáu tháng tại động Sattapanna (Saptaparna, động Thất Diệp) trên núi Vaibhara. Động này còn được gọi là Pippali-guha (động Tất-bát-la, guha = động) vì nơi đây có cây Pippala (Tất-bát-la), có nhân duyên lớn với ngài Mahà Kassapa (tên thật là Pippalayana). Đại hội được vua Ajàtasattu đích thân đứng ra bảo trợ.

Thượng tọa Mahà Kassapathường được các vị khất sĩ trong giáo đoàn tôn trọng như vị đại đệ tử thứ ba của Phật, sau hai Thượng tọa Sàriputta và Moggallàna đã qua đời. Thượng tọa nổi tiếng là một tu sĩ hạnh "đầu-đà", thích sống đơn giản, đạm bạc, thiểu dục tri túc. Thượng tọa đã được Phật tin tưởng và thương mến không khác gì các Thượng tọa Sàriputta và Moggallàna. Hơn hai mươi năm về trước, áo cà-sa sanghàti của Thượng tọa là một chiếc áo bách nạp, được kết lại bằng những mảnh vải vụn. Có lần Thượng tọa đã xếp tư chiếc áo ấy lại và trải ra trong rừng mời Phật ngồi. Phật khen chiếc áo của Thượng tọa ngồi rất êm. Thượng tọa liền ngỏ ý cúng dường Phật chiếc áo bách nạp ấy. Phật mỉm cười nhận lời và tặng lại Thượng tọa chiếc áo sanghàti của chính người. Trong đại chúng ai cũng biết chuyện này. Thượng tọa cũng chính là người đã mỉm cười khi Phật đưa cành hoa sen lên mà không nói gì ở núi Griddhakùta (Linh Thứu), và được Phật tuyên bố truyền trao cho Thượng tọa "Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Thật Tướng Vô Tướng, Vi Diệu Pháp Môn" trước đại chúng.

Ai cũng nghĩ rằng sự có mặt của Thượng tọa Ànandatrong đại hội kiết tập kinh điển rất cần thiết. Nhưng trước đại hội ba ngày, Thượng tọa Ànanda bị Thượng tọa Mahà Kassapa quở nặng và cho biết là Thượng tọa Ànanda sẽ không được dự đại hội vì lý do thầy chưa đắc quả A-la-hán. Thượng tọa Ànanda buồn chảy nước mắt, thầy tìm chỗ thanh vắng tĩnh tu luôn trong ba ngày đêm. Ngay trong đêm cuối cùng trước ngày khai mạc đại hội, Thượng tọa Ànanda ngồi thiền định đến ba giờ sáng, vừa ngả lưng xuống để nghỉ ngơi, lưng chưa chạm đất thì thầy hoát nhiên đại ngộ, đắc quả A-la-hán (Tạng Luật, Tiểu Phẩm, tập 2: 617) . Sáng hôm đó, vừa thấy mặt Thượng tọa Ànanda, Thượng tọa Mahà Kassapa rất vui mừng biết ngay chuyện gì đã xảy ra, liền mời Thượng tọa vào tham dự đại hội.

Trong đại hội, Thượng tọa Upàli, vốn nổi tiếng về luật học, được mời lên ôn tụng giới luật. Thầy đọc đi đọc lại đến 80 lần để tất cả mọi người đều thuộc lòng. Nhờ những câu hỏi hướng dẫn của Thượng tọa Mahà Kassapa mà Thượng tọa Upàli nhắc lại được hết những nhân duyên do đó các giới luật được thiết lập. Tất cả những tài liệu về giới luật được kiết tập lại thành một kho tàng luật học gọi là Tạng Luật(Vinaya Pitaka).

Thượng tọa Ànanda, vốn nổi tiếng về nghe Phật thuyết pháp nhiều và nhớ dai, được đại hội mời lên trùng tuyên tất cả những bài pháp thoại của Phật gọi là kinh. Nhờ những câu hỏi hướng dẫn của Thượng tọa Mahà Kassapa mà Thượng tọa Ànanda có dịp nói ra hết những chi tiết về thời gian, nơi chốn và cơ duyên đã đưa tới mỗi pháp thoại của Phật. Cuối cùng Thượng tọa Ànanda xin sám hối trước đại chúng về những lỗi lầm của ngài như sau[3]: 1- Trước khi nhập diệt đức Phật có nói với Ànanda cho phép Giáo Hội hủy bỏ hay sửa đổi các giới luật không quan trọng; nhưng Ànanda quên hỏi những giới luật nào là không quan trọng; do đó Đại hội quyết định giữ nguyên các giới luật. 2- Ànanda, có một lần đã sơ ý đạp lên y tắm mưa của Phật trước khi may. 3- Khi Phật nhập diệt, Ànanda đã sơ ý để các Tỳ kheo ni vào trước lễ Phật, khóc lóc chảy nước mắt lên thân Phật. 4- Trong lúc tắm rửa kim thân đức Phật, Ànanda quên không bảo kéo màn che kín, để nhiều người nhìn thấy. 5- Không kịp thời thỉnh Phật trụ thế lâu dài hơn. 6- Đã khẩn cầu Phật cho nữ giới xuất gia mặc dù Ànanda không cảm thấy hối tiếc về việc này. Tất cả những tài liệu về Giáo Pháp được kiết tập lại thành một kho tàng Giáo Pháp gọi là Tạng Kinh(Sutta Pitaka) gồm 4 bộ: Trường Bộ (Dìgha nikàya), Trung Bộ (Majjhima nikàya), Tương Ưng Bộ (Samyutta nikàya) và Tăng Chi Bộ (Anguttara nikàya).

Tiếp theo, Thượng tọa Mahà Kassapađược mời nói lại những bài giảng của Phật về Vi Diệu Pháp (Thắng Pháp, Abhidhamma). Tất cả những tài liệu về giáo lý cao siêu được kiết tập lại thành Tạng Luận(Abhidhamma Pitaka)[4].

Kể từ đây, tuy chưa được viết ra thành văn tự, giáo lý của đức Phật đã được kiết tập lần đầu tiên thành Tam Tạng Kinh Điển (Tri-pitaka, Tipitaka) gồm có Tạng Kinh (Sutta pitaka), Tạng Luật (Vinaya pitaka) và Tạng Luận (Abhidhamma pitaka), được đọc đi đọc lại nhiều lần bằng tiếng Pali Magadhacho mọi người trong phiên họp đều ghi nhớ.

Kiết tập kinh điển lần thứ nhì tại Vesàlì (năm -444)[5]

Một trăm năm sau khi Phật nhập niết bàn, vào thời vua Kalasoka ở xứ Magadha, 700 vị A-la-hán tham dự đại hội do Thượng tọa Yasa(Da Xá) triệu tập tại tu viện Vàlika ở Vesàlì, dưới sự chủ tọa của Thượng tọa Revata, để cứu xét đề nghị sửa đổi 10 điều luật của nhóm Tỳ kheo Vajjiputta[6]. Nguyên nhân vì khi Thượng tọa Yasa, con của Kakandaka, đến dự lễ Bố-tát (Uposatha) tại Vesàlì, nhận thấy nhiều cư sĩ dâng cúng tiền bạc cho các khất sĩ; Thượng tọa Yasa phản đối việc này. Mười điều luật mới của nhóm Vajjiputta đề nghị là :

1- Giác diêm tịnh: Cho phép ướp muối vào thức ăn để hôm khác sử dụng.

2- Nhị chỉ tịnh: Trong khoảng thời gian từ lúc mặt trời đứng bóng đến khi bóng mặt trời xê dịch thêm hai ngón tay, vẫn được phép ăn.

3- Tha tụ lạc tịnh: Sau khi thọ thực ở một tụ lạc, được phép sang một tụ lạc khác thọ thực thêm.

4- Trụ xứ tịnh: Tỳ kheo cùng ở một giáo khu không cần phải cùng bố-tát ở một nơi.

5- Tùy ý tịnh: Khi họp chúng tăng ni bàn luận xử quyết, tuy số tăng ni tham dự không đủ, nhưng nếu dự đoán số người vắng mặt đồng ý, vẫn được làm phép yết-ma[7].

6- Sở tập tịnh: Tùy thuận theo lệ trước.

7- Sanh hòa hợp tịnh: Sau khi ăn no, vẫn được phép uống loại sữa bò chưa khuấy (sữa chua), trừ lớp váng trên mặt.

8- Ẩm xà-lâu-ngức tịnh: Được phép uống nước dừa (nước trái cây) chưa lên men (xà-lâu-ngức), hoặc vừa lên men phân nửa (rượu non).

9- Vô duyên tọa cụ tịnh: May tọa cụ được phép khỏi viền, và lớn nhỏ tùy ý.

10- Kim ngân tịnh: Được phép nhận cúng dường bằng tiền bạc.

Do sự bất đồng ý kiến về đề nghị sửa đổi trên, nên từ đây Tăng già được chia làm hai bộ phái :

Thượng Tọa Bộ(Sthaviravada), bảo thủ, gồm các vị Tỳ kheo cao niên, thành lập Nam tông, còn gọi là Phật giáo Nguyên thủy(Theravada), do Thượng tọa Yasa (Da Xá) đại diện. Thượng tọa Yasa cho 10 điều trên là “Thập Sự Phi Pháp”, đều không hợp với quy chế của Phật. Thượng Tọa Bộ chủ trương giữ nguyên vẹn các giới luật và cách hành trì như lúc Phật còn tại thế.

Đại Chúng Bộ(Mahàsangika), cấp tiến, gồm các vị Tỳ kheo trẻ, thành lập Bắc tông, còn gọi là Phật giáo Đại thừa (Mahàyana), do nhóm Tỳ kheo Vajjiputta ở Vesàlì đại diện. Đại Chúng Bộ, căn cứ vào lời dạy của đức Phật cho phép sửa đổi những giới luật không quan trọng, chủ trương tùy thuận theo hoàn cảnh xã hội mới và phong tục địa phương.

Trong kỳ kiết tập lần thừ hai nầy Tạng Kinh (Sutta Pitaka) được bổ túc thêm bằng những bài kinh còn sót trong kỳ kiết tập lần thứ nhất, họp thành Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya).

Kiết tập kinh điển lần thứ ba tại Pàtaliputta (năm -252)

Tại Patalliputta hiện nay là Patna, 292 năm sau khi Phật nhập niết bàn, có 1000 vị A-la-hán tham dự kiết tập kinh điển lần thứ ba dưới sự chủ tọa của ngài Moggaliputta Tissa(Mục Kiền Liên Tử Đế Tu), do vua Asoka(A Dục, -304/-232) triệu tập. Mục đích cuộc hội họp kỳ này là để củng cố Tam Tạng Pháp Bảo theo Thượng Tọa Bộ, bổ túc các kinh còn thiếu sót vào Tiểu Bộ (Khuddaka nikàya), loại trừ các phần tử xấu xa trong tăng hội, phái những vị có khả năng sang các nước láng giềng truyền bá Chánh Pháp.

Sau kỳ kiết tập nầy, vua Asoka được đạo sư Moggaliputta Tissa đưa đi chiêm bái các Phật tích, mỗi nơi vua đều cho dựng các trụ đá kỷ niệm; con trai của vua Asoka là Thượng tọa Mahìndamang Giáo Pháp đến truyền bá tại Sri Lanka (Tích Lan). Tại đây Thượng tọa Mahìnda lại tổ chức hội họp và tuyên đọc lại bản kiết tập lần thứ ba tại Patalliputta. Qua năm sau, Ni sư Sanghamitta, con gái vua Asoka, mang một nhánh chiết từ một cành phía nam của cây Đại Bồ Đề nơi Phật thành đạo, đến trồng tại Anuradhapura, thủ đô xứ Sri Lanka vào triều vua Devanampiya Tissa, hiện nay vẫn còn tươi tốt. Đồng thời Ni sư Sanghamitta cũng là người đầu tiên thành lập Ni bộ tại xứ này.

Kiết tập kinh điển lần thứ tư, của Nam tông tại Aluvihara (năm -200)

Tại Aluvihara[8], Sri Lanka (Tích Lan), dưới trào vua Vattàgamani Abhaya, trong ngôi chùa Mahà Vihara do Thượng tọa Mahìnda, con vua Asoka, cất trong hang đá vào thế kỷ thứ 3 trước tây lịch, với sự có mặt của 500 vị Thượng tọa Tích Lan. Hội nghị quyết định viết Tam Tạng Pháp Bảo bằng tiếng Pali trên lá bối(lá thốt nốt, lá dừa nước, talipot, Corypha umbraculifera) và có thêm phần chú thích bằng tiếng Tích Lan (Sinhala). Trong quyển Buddhaghasuppatti, nói về tiểu sử của ngài Buddhaghosa (Phật Âm), có ghi rằng nếu chất lại thành đống Tam Tạng Kinh chép trên lá bối sẽ to hơn sáu thớt voi. Kể về lượng thì ba tạng kinh Phật này bằng mười một lần quyển thánh kinh của Thiên Chúa Giáo.

Đến năm +450, ngài Buddhaghosa(Phật Âm) lại tổ chức thêm một kỳ kiết tập kinh điển với mục đích canh cải lại vài chỗ bất đồng giữa kinh điển Pali Magadha và kinh điển Pali Sri Lanka.

Kiết tập kinh điển lần thứ tư, của Bắc tông tại Kudalavana (năm -200)

Tại thủ đô Kudalavanaxứ Kasmira[9](Cachemire, Kế Tân), do vua Kaniska(Ca Nị Sắc) triệu tập để ghi chép Tam Tạng Pháp Bảo bằng tiếng Sanscrit, tiếng gốc của Bà-la-môn giáo, có thêm phần chú thích và luận giải. Kỳ kiết tập kinh điển này được đặt dưới quyền chủ tọa của Tổ Asvaghosa[10](Mã Minh), vị Tổ thứ 12. Tam tạng kinh điển Bắc tông đầu tiên, viết bằng tiếng Sanscrit, gồm có tạng Kinh Upadesa(Luận Ưu-ba-đề-xá, Khế kinh luận nghị) gồm 100.000 bài tụng, kế đến tạng Luật Vinaya Vibhasa(Luận Tỳ-nại-da Tỳ-bà-xa) gồm 100.000 bài tụng, sau cùng là tạng Luận Abhidharma Vibhasa(Luận A-tỳ-đạt-ma Tỳ-bà-sa) gồm 100.000 bài tụng. Tất cả ba tạng có 9.600.000 chữ. Vua Kaniska cho khắc tất cả lên những bảng bằng đồng cán mỏng, rồi cất trong rương đá và xây tháp để thờ.

Kể từ đây giáo lý Bắc tông bắc đầu được các vị Tổ sư tuyên dương ở Ấn Độ, rồi lần hồi truyền đến Tây Tạng và Trung Hoa. Các kinh luận Đại thừa càng ngày càng dồi dào và được truyền bá sâu rộng trong đại chúng. Viện Đại học Phật giáo Nàlandà từ thế kỷ thứ hai trước tây lịch đến cuối thế kỷ thứ tám sau tây lịch nổi tiếng là nơi phổ biến giáo lý Đại thừa. Vào thế kỷ thứ bảy, chính ngài Huyền Trangđã đến nơi đây học với ngài Viện trưởng Sìlabhadra(Giới Hiền), sau đó ngài Sìlabhadra mời ngài Huyền Trang ở lại giảng dạy suốt 2 năm trước khi trở về Trung quốc. Trong thời gian này, vua Kumàra (Cưu Ma La) có tổ chức một đại hội nghị luận về Giáo lý Đại thừa và mời ngài Huyền Trang thuyết trình đề tài Chân Duy Thức Luận. Ngài Huyền Trang đã thuyết phục được trên 7.000 tăng sĩ có mặt tại đại hội và làm cho Giáo lý Đại thừa càng thêm rực rỡ. Năm 645, ngài Huyền Trang về đến Trung Quốc với 657 bộ kinh Đại thừa bằng tiếng Sanscrit (Phạn). Suốt 19 năm còn lại, ngài Huyền Trang đã dịch được 75 bộ, gồm 1.335 quyển kinh, luật, luận của Đại thừa. Kể từ đây Trung Hoa thành lập bộ Đại Tạng Kinh của Phật giáo Đại thừavà cứ tu bổ lần hồi cho đến ngày nay. Ngoài bộ Đại Tạng Kinh của Trung Hoa còn có bộ Đại Tạng Kinh của Tây Tạng và bộ Đại Tạng Kinh của Nhật Bản. Nhưng bộ Đại Tạng Kinh của Trung Hoa được xem là đầy đủ nhất về Tam Tạng Kinh Điển của Đại thừa Phật giáo. Trong khi đó ở Ấn Độ, vào thế kỷ 11 và 12, Viện Đại Học Nàlandà cũng như hầu hết các cơ sở và kinh sách Phật giáo đều bị Hồi giáo tiêu hủy.

Kiết tập kinh điển Nam tông tại Mandalay, Miến Điện (năm 1871)

Do vua Mindon(Mẫn Đông) triệu tập 2400 vị Cao Tăng Miến Điện, lấy tạng Luật làm chính, đối chiếu chỗ đồng dị trong nguyên văn thánh điển để hiệu chính, cùng nhau hợp tụng ròng rã suốt 5 tháng mới hoàn thành. Nhà vua cho khắc trọn bộ Tam Tạng Pali mới này trên 729 bia đá cẩm thạch màu đen vân trắng, dựng trong chùa tháp Kuthadaw, dưới chân núi Mandalay, phía ngoài có 45 ngôi tháp Phật vây quanh. Hiện nay vẫn còn.

Kiết tập kinh điển Nam tông tại Rangoon, Miến Điện (năm 1954)

Vào ngày lễ Phật Đản 17/05/1954, với sự giúp đỡ của chính phủ,cùng một lúc với Đại hội kỳ 3 của Tổng Hội Phật Giáo Thế Giới tại Rangoon, Phật Giáo Miến Điện đã tổ chức cuộc kiết tập kinh điển lần thứ sáu này với mục đích gây tình đoàn kết giữa Phật giáo đồ, chấn hưng Phật Giáo Thượng Tọa Bộ, ăn mừng nước Miến Điện vừa được độc lập. Địa điểm kiết tập là trên sườn núi Nghệ Cố, thuộc ngoại ô phía bắc thủ đô Rangoon.

Lần kiết tập này y cứ trên 729 phiến đá cẩm thạch của lần kiết tập thứ 5, đồng thời đối chiếu với tất cả các bảng gỗ bằng tiếng Pali của “Pali Thánh Điển Hiệp Hội” (Pali Text Society) ở các nước Anh, Tích Lan, Thái Lan, Cam Bốt và Miến Điện. Trong kỳ kiết tập này các vị Tỳ kheo ở các nước thuộc Phật Giáo Bắc Tông cũng được mời tham dự. Ròng rã 2 năm, đến lễ Phật Đản năm 1956 (Phật lịch 2500) mới hoàn thành. Toàn bộ được ấn hành trên giấy.



[1]Kiết (tiếng Hán Việt) có nghĩa là tay và miệng cùng làm. Kiết tậpcó nghĩa là họp nhau lại đọc tụng và ghi chép. Kết tậpcó nghĩa là đã thành thói quen.

[2]Xem Tạng Luật, Tiểu Phẩm, tập 2: 614-629 (chương 11: Liên Quan Năm Trăm Vị).

[3]Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 166; Tạng Luật, Tiểu Phẩm, tập 2: 622.

[4]Theo The Life of Buddha as Legend and History, trang 167, thì trong kỳ kiết tập kinh điển đầu tiên không có đề cập đến tạng Luận (Abhidhamma) riêng biệt. Trong Tiểu Phẩm, chương 11 cũng không thấy đề cập đến tạng Luận riêng biệt.

[5]Xem Tạng Luật, Tiểu Phẩm, tập 2: 630-664 (chương 12: Liên Quan Bảy Trăm Vị).

[6]Bạt Kỳ Tử(Vajjiputta) là nhóm tỳ kheo trẻ ở xứ Bạt Kỳ (Vajji).

[7]Yết-ma: Các Phật sự có liên quan đến giới luật như thọ giới, sám hối, kiết giới (tụng giới) ...

[8]Aluviharalà một ấp nhỏ của Tích Lan, cách thành phố Kandy hiện nay độ 30 km.

[9]Xứ Kasmira(Kế Tân) hiện nay là vùng biên giới giữa 3 xứ Ấn Độ, Pakistan và Trung Hoa.

[10]Theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang thì kỳ kiết tập này do Tổ Vasumitra và Pàrsva chủ tọa, nhưng xét về thời gian thì không đúng. Tổ Vasumitra và Tổ Pàrsva đều là luận sư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Chính Tổ Asvaghosa (Mã Minh)mới là người có văn tài đặc biệt về Sanscrit và đúc kết Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ trong 300 000 bài tụng bằng Sanscrit.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2018(Xem: 4815)
Mẹo hay Đánh cược với hòa thượng, cậu bé thắng một gánh củi nhưng để mất thứ quý giá gấp nhiều lần
30/03/2018(Xem: 9448)
Ngày xưa có chú nai hiền Nhởn nhơ vui sống giữa miền hoang sơ Trong khu rừng rậm ven bờ Sông Hằng cuồn cuộn sóng mờ nhân gian. Dáng nai đẹp đẽ dịu dàng Sừng trong nước ngọc, thân vàng ánh châu Nhưng mắt nai lắng u sầu Thương cho trần thế nhuốm mầu bi ai, Nai nghe, nói được tiếng người Nai là Bồ Tát một thời hiện thân. Bên nai muông thú quây quần Coi nai như mẹ muôn phần yêu thương
21/03/2018(Xem: 9679)
Tu Viện Quảng Hương Già Lam, thường được công chúng gọi ngắn gọn là Chùa Già Lam, tọa lạc tại quận Gò Vấp, Thành Phố Hồ Chí Minh. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông, do Hòa thượng Thích Trí Thủ sáng lập vào năm 1960, đây chính là nơi đào tạo tăng tài (cấp đại học) để hoằng dương chánh pháp, phụng sự Phật đạo. Ban đầu, chùa có tên là Giải Hạnh Già Lam, đến năm 1964 được đổi tên là Quảng Hương Già Lam, do lấy tên của một vị học tăng pháp danh Quảng Hương đã vị pháp thiêu thân vào năm 1963 ở Sài Gòn.
16/03/2018(Xem: 15391)
Bí Mật Xứ Tạng (sách pdf) Thích Minh Thế
13/03/2018(Xem: 9988)
Đại hành giả yogi Milarepa sinh trưởng tại tỉnh Gungthang miền Tây Tây Tạng. Ngài là con trai của một chúa đất giàu có tên là Mila Sherab Gyaltsen. Nhưng năm lên bảy tuổi, cha Ngài lâm trọng bệnh và qua đời, trước đó ông đã giao phó toàn bộ gia sản và gửi gắm vợ con mình cho chú thím của Milarepa rồi dặn dò khi nào Milarepa trưởng thành thì chú thím phải trả lại tài sản cho Milarepa và cô em gái. Thế nhưng sau khi cha Ngài mất, người chú và người thím xấu xa tước đoạt toàn bộ gia tài, họ còn bắt ba mẹ con Milarepa phải làm việc như những kẻ nô bộc trên đồng ruộng mà không được trả công. Khi Milarepa lớn lên, chú thím không những không trả lại gia sản mà còn cho rằng đó là phần mà cha Ngài phải trả nợ cho họ. Tức giận và cảm thấy bị sỉ nhục, mẹ của Milarepa gửi Ngài đi học huyền thuật để trừng phạt những kẻ vong ân bội tín. Chẳng bao lâu sau, Milarepa thành thục quyền năng huyền thuật hủy diệt và trong khi trả thù chú thím, Ngài đã sát hại rất nhiều người vô tội. Vô cùng hối hận t
13/03/2018(Xem: 8663)
Tôi rất vui mừng khi được một người bạn mời đóng góp cho trang tôn giáo, tiết mục Phật giáo, trên website của Gia đình Mũ đỏ vùng Thủ đô Hoa Thịnh đốn & Phụ cận, Trước khi bắt đầu cho những bài viết sắp tới, tôi xin được nói về bản thân mình, điều mà rất hiếm khi tôi thường nói đến. Vì tôi nghĩ, nói về Nhảy dù mà bản thân chẳng có một ngày nào sống trong binh chủng này, hay nói về Tae Kwon Do mà không biết tí gì về võ thuật, hay nói về kỹ thuật nhảy toán mà chưa một ngày mang huy hiệu thám sát của Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, thì khi nói đến ai mà tin. Vì vậy tôi phải nói một ít về bản thân, tạo niềm tin cho đọc giả với những bài viết về Phật giáo sau này.
09/03/2018(Xem: 11863)
Tuy là thầy của Nhật Hoàng Thiền sư vẫn thích lang thang du hành Ngài tuy đã rất nổi danh Vẫn làm khất sĩ dạo quanh khắp vùng. Một hôm ngài chợt tạm ngừng Ghé ngôi làng nhỏ trên đường lãng du Trời chiều tăm tối âm u Mưa rơi tầm tã, gió ru lạnh lùng Thân ngài thấm ướt vô cùng Dép rơm tơi tả muốn bung đứt rồi. Tại ngôi nhà nhỏ ven đồi Thấy vài đôi dép bày nơi cửa ngoài Ngài bèn ghé lại tìm người Hỏi mua dép mới thay đôi cũ này, Một bà ở tại trong đây Biếu ngài đôi dép. Lòng đầy xót xa
01/03/2018(Xem: 9316)
Con người còn sống là còn nhiều chuyện để làm, để nói, và suy nghĩ. Ngay cả sau khi chết, sự sống vẫn tiếp tục dưới nhiều hình thức khác. Dù tu chứng đến thành Phật hay Bồ tát thì các ngài vẫn có chuyện để làm, đó là tiếp tục ra vào sinh tử độ sinh, và công việc đó không bao giờ chấm dứt. Mạng sống của con người có ngày chấm dứt nhưng sự sống và dòng đời trôi chảy bất tận.
01/03/2018(Xem: 14256)
Từ lâu Kinh Phật dạy rồi: "Những điều chứa ẩn ở nơi Tâm người Luôn luôn biểu lộ ra ngoài: Tâm như họa sĩ đại tài khéo tay Vẽ muôn hình tượng giống thay, Chúng sanh nên gắng tu ngay Tâm mình!".
04/02/2018(Xem: 5051)
Các trung tâm Bưu điện Úc ( Australia Post – Mail Centre ) có thể nói là nơi dung nạp hay nói đúng hơn là nơi lựa chọn công việc để nương thân của một số những người VN tỵ nạn trong những năm đầu tiên được định cư nơ xứ sở tốt đẹp nầy. Công việc được tuyển dụng vào các trung tâm thư tín nầy là lựa thư ( mails sorting ) và đã được hệ thống Bưu điện Úc gọi cho một cái tên tương đối cũng vui vui là “Mail Officer “ . Việc làm tương đối không có gì cực nhọc, lương bổng cũng tạm hài lòng so với những công việc hiện thời, nhiều over time nên càng có cơ hội để kiếm thêm tiền, công việc vững vàng, ổn định, vì là thuộc diện Job chính phủ, rất hợp cho hoàn cảnh của những người VN tỵ nạn nữa thầy, nữa thợ nơi đây, nói vậy chứ một số lớn người VN làm cho ngành Bưu điện Úc, ngoại trừ một số người có mưu cầu cao hơn, thì cũng ít người bỏ việc nữa chừng, họ đã từ cái job nầy mà được ăn ngon, mặc đẹp, nhà cao, của rộng, xe cộ xênh xang, đời sống khá vững vàng, đủ điều kiện lo cho con cái ăn học nê
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]