Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

51. Hạ thứ 45 tại làng Beluva gần Vesàlì (năm -545)

02/03/201421:43(Xem: 20005)
51. Hạ thứ 45 tại làng Beluva gần Vesàlì (năm -545)
phatthichca2

Sự Tích Đức Phật Thích Ca
Soạn giả : Minh Thiện Trần Hữu Danh

(Ấn bản 09/2010, có hiệu chính và bổ túc)

Hạ 45 tại làng Beluva gần Vesàlì[1](năm -545)

Sau khi qua sông Gangà tại Pàtaliputta (tên cũ là Pàtaligàma), Phật và giáo đoàn đi tới Kotigàma. Phật ở lại Kotigàma vài ngày để chỉ dạy cho một số đông khất sĩ tại đây về tầm quan trọng và cách thực hành Tứ Diệu Đế để chấm dứt đau khổ luân hồi, rồi Phật lại đi đến làng Nàdika. Nơi đây Phật và giáo đoàn nghỉ tại một ngôi nhà xây bằng gạch gọi là Ginjakavasatha. Tại đây, nhân dịp Thượng tọa Ànanda hỏi thăm Phật về những vị đệ tử đã mệnh chung tại vùng này, trong số đó có nữ khất sĩ Sundarì Nandà, em gái của Phật, các vị khất sĩ Sàlha, Nàdika, nữ cư sĩ Sujàtà ngày xưa đã dâng bát cháo sữa cho Phật, và các cư sĩ Kakudha, Bhadda, Subhadda, ... Sau khi Phật giải đáp về quả vị chứng đạt của từng vị, đức Phật nói thêm:

Này Ànanda, hơn năm mươi cư sĩ mệnh chung tại Nàdika, đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử[2], chứng quả Bất hoàn (Anàgàmi), hóa sanh thiên giới và từ đó nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này nữa. Này Ànanda, hơn chín mươi nam cư sĩ mệnh chung tại Nàdika, đã diệt trừ ba kiết sử[3], làm giảm thiểu tham sân si, chứng quả Nhứt lai (Sakadàgàmi), sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau. Này Ànanda, hơn năm trăm nam cư sĩ, mệnh chung tại Nàdika, đã diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu (Sotàpatti), nhứt định không còn đọa vào ác đạo, nếu tinh tấn sẽ đạt đến Chánh giác.

“Này Ànanda, thật không có gì lạ về vấn đề con người phải mệnh chung. Nhưng mỗi lần có người mệnh chung lại đến hỏi Như Lai về vấn đề này thời Ànanda, như vậy làm phiền nhiễu Như Lai. Này Ànanda, vì vậy ta sẽ giảng Gương Chánh Pháp[4](Dhammadasa) để Thánh đệ tử, sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn, sẽ tự biết về mình như sau: "Đối với ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ không còn tái sanh vào cõi bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta đã chứng quả Dự lưu, nhứt định không đọa ác đạo, sẽ đạt Chánh giác". Người tu hành nào thông hiểu Bát Thánh Đạo, tinh tấn thực hành Giới Định Tuệ để diệt trừ dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, và vững tin nơi Tam Bảo đều có thể nhìn vào gương Phật, Pháp, Tăng rồi tự quán xét tâm mình để biết mình có được vào dòng giải thoát chưa, không cần phải hỏi ai khác.

Phật bệnh nặng tại Beluva, gần Vesàlì[5]

Rời Nàdika, Phật và giáo đoàn tới thủ đô phồn thịnh Vesàlì của xứ Vajji, ngụ tại vườn xoài của bà Ambapàli trong làng Amvara. Bà Ambapàli thiết lễ cúng dường trai tăng ngày hôm sau. Trong buổi lễ bà dâng cúng khu vườn xoài của bà cho giáo đoàn khất sĩ dùng làm tinh xá, và bà cũng xin được xuất gia, về sau đắc quả A-la-hán.[6]

Tại Vesàlì, đức Phật giảng cho các vị khất sĩ về Chánh niệm và Tỉnh giác như sau:

Này quý thầy, Tỳ kheo phải sống an trú Chánh niệm Tỉnh giác. An trú Chánh niệm là đối với thân, đối với các cảm thọ, đối với tâm, đối với các pháp phải luôn luôn tinh tấn quán vô thường, vô ngã, niết bàn, chánh niệm nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở đời. Tỉnh giác là phải luôn luôn theo dõi mọi cử động, lời nói, ý tưởng và giữ cho chúng được thanh tịnh.

Đức Phật cũng nhắc đến pháp tu Giới Định Tuệ:

Này quý thầy, đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu[7].

Vài ngày sau, Phật rời Vesàlì đi tới làng Beluvagamaka (hiện nay là Basarli) thuộc ngoại ô thủ đô Vesàlì. Cơn mưa đầu tiên đổ xuống, kéo dài gần hai ngày. Phật quyết định an cư năm nay tại làng Beluva này, và khuyên các vị khất sĩ trong đoàn nên nhập hạ bên trong hoặc xung quanh thành Vesàlì vì làng Beluva không có nơi thuận lợi để giáo đoàn có thể nhập hạ chung. Đây là mùa an cư thứ 45 sau ngày Phật thành đạo tại Bodh Gayà, và cũng là mùa an cư cuối cùng của đức Phật.

Giữa mùa an cư năm nay Phật bị bệnh nặng. Thân thể người đau đớn vô cùng. Người nằm yên, không hề rên siết, giữ vững chánh niệm và hơi thở. Mọi người nghĩ rằng Phật sẽ không qua khỏi. Nhưng không ngờ sau một tuần, Phật vượt qua được cơn đau. Sức khỏe dần dần hồi phục. Vài ngày sau Phật tự đứng dậy được, đi ra khỏi am, đến ngồi trên một tảng đá trước am để phơi nắng.

Phật dạy nương tựa nơi Tự Tính Tam Bảo[8]

Thượng tọa Ànanda đến ngồi bên cạnh Phật, nói :

Bạch Thế Tôn, bốn mươi mấy năm nay con chưa từng thấy Thế Tôn bệnh nặng như lần này. Hôm Thế Tôn nằm im lìm suốt ngày không động đậy, con cảm thấy bủn rủn cả tay chân. Đầu óc của con lúc ấy không được sáng suốt, con nghĩ rằng Thế Tôn sẽ không qua khỏi. Nhưng con lại tự nhủ thầm : Đức Thế Tôn chưa di chúc gì hết cho giáo đoàn khất sĩ thì chắc Thế Tôn chưa nhập niết bàn đâu. Nhờ nghĩ như vậy mà con an tâm được phần nào.

Này Ànanda, Giáo đoàn khất sĩ còn chờ đợi gì ở Như Lai nữa mà thầy bảo là Như Lai phải để lại di chúc ? Chánh Pháp đã được Như Lai giảng bày cặn kẽ cho mọi người, có điều gì cần cho sự tu tập giải thoát mà Như Lai còn chưa chỉ dạy cho quý vị đâu ?

“Này Ànanda, chỗ nương tựa của Giáo đoàn là Chánh Pháp, không phải ở một vị Giáo chủ. Các thầy đừng đi tìm một chỗ nương tựa nào khác ngoài Chánh Pháp. Mỗi người phải tự lấy Chánh Pháp làm nơi nương tựa. Phải sống theo Chánh Pháp. Phải biết sống theo tự tâm thanh tịnh của chính mình. Này Ànanda, Phật, Pháp, Tăng đều có sẵn trong mỗi người chúng ta : khả năng giác ngộ là Phật, pháp môn tu học là Pháp, tinh tấn thực hành là Tăng. Không ai có thể cướp giật Phật, Pháp, Tăng ra khỏi thân tâm quí thầy được. Dù trời đất có nghiêng ngã, Tự Tính Tam Bảo nơi mỗi người vẫn còn nguyên vẹn. Đó là nơi nương tựa an ổn nhất của quí thầy. Vị khất sĩ trở về an trú trong chánh niệm, quán chiếu thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng của tâm ý, đó là vị khất sĩ đang có nơi nương tựa vững chãi nhất. Một người khác, dù là giáo chủ, thượng thủ hay bổn sư của mình, cũng vẫn không phải là chỗ nương tựa vững chãi hơn Tự Tính Tam Bảo sẵn có nơi mỗi người.

“Này Ànanda, những gì cần biết Như Lai đã chỉ dạy đầy đủ. Ngọn đuốc Chánh Pháp Như Lai đã làm sẵn. Các thầy hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi.

“Này Ànanda, Như Lai không nghĩ rằng có người nào phải lãnh đạo Giáo Đoàn Khất Sĩ, hoặc Giáo Đoàn Khất Sĩ phải tùy thuộc nơi người nào. Tại sao Như Lai phải để lại di chúc về Giáo Đoàn ?

“Này Ànanda, bây giờ Như Lai đã kiệt lực, già yếu và gần đến ngày lìa trần. Như Lai đã tám mươi tuổi rồi, không khác nào một cỗ xe quá cũ kỹ phải cần có những sợi dây để cột lại các bộ phận, giữ cho nó khỏi rời ra. Thân của Như Lai hiện nay cũng cần có những sợi dây thừng tương tợ.

“Này Ànanda, chừng nào Như Lai không còn nghĩ gì đến sự vật xung quanh, mọi cảm thọ đều chấm dứt, tâm hoàn toàn an trụ và bất động, chừng đó thân của Như Lai mới thật là thoải mái.”

Thượng tọa Sàriputta viên tịch tại Nàlaka[9]

Vào cuối mùa an cư thứ 45, sức khỏe của Phật đã được hồi phục. Một buổi sáng, chú tiểu Cunda, thị giả của Thượng tọa Sàriputta, đi từ làng Upatissa (Nàlaka), quận Nàlandà, đến làng Beluva, bước vào am của Thượng tọa Ànanda với nét mặt mệt mỏi vì đường xa. Vừa trông thấy Thượng tọa Ànanda, chú khóc nức nở, nước mắt ràn rụa trên đôi má bám đầy bụi đất. Chú cúi xuống đảnh lễ Thượng tọa Ànanda, rồi đứng lên thò tay vào đãy lấy ra hai chiếc cà-sa, một bình bát và một bình đựng tro xương xá lợi của Thượng tọa Sàriputta. Chú nức nở khóc, không nói nên lời. Mà chú cũng chẳng cần nói gì. Vừa thấy chú bước vào, Thượng tọa Ànanda đã hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra. Thượng tọa ôm chú sa di vào lòng, để chú khóc một hồi rồi dắt chú ra ngồi dưới gốc cây trước cửa am. Chú sa di Cunda đã bớt khóc, chú bắt đầu kể :

Thượng tọa Sàriputta về đến làng Upatissa thăm mẹ là bà Rùpa Sari, thuyết pháp cho bà nghe. Sau khi nghe xong bà đắc quả Tu-đà-hoàn. Thượng tọa đã săn sóc bà cho đến khi bà lâm chung. Sau lễ trà tỳ của bà Sari, sẵn có mặt đầy đủ bà con và dân cư quen biết trong làng, Thượng tọa lại thuyết pháp cho họ nghe. Mọi người đều chăm chú lắng nghe vì Thượng tọa nói hay lắm. Thượng tọa giảng về cuộc đời là vô thường và dẫy đầy những thống khổ về thân cũng như về tâm, Chánh Pháp là con đường duy nhất có thể đưa con người ra khỏi biển khổ sanh tử để đến niết bàn an lạc thanh tịnh. Sau thời pháp, Thượng tọa làm lễ quy y Tam Bảo cho gần mười người. Rồi đêm đó, nhằm đêm trăng tròn tháng Kattika (11 dl) Thượng tọa ngồi nhập định trong tư thế kiết già trong phòng nơi ngài sinh ra. Đến sáng sớm hôm sau, chú Cunda mới biết là Thượng tọa Sàriputta đã nhập diệt có lẽ vào lúc nửa đêm. Trước đó Thượng tọa có nói là Thượng tọa muốn nhập diệt trước Phật, và dặn Cunda nên đem y bát và xá lợi của Thượng tọa đến trình Phật và xin Phật cho chú đi theo kề cận ngài.

Thượng tọa Ànanda lau nước mắt, đứng dậy, dắt chú tiểu Cunda đi gặp Phật, đem theo cà-sa, bình bát và bình xá lợi của Thượng tọa Sàriputta. Phật đứng lặng yên nhìn cà-sa, bình bát và bình xá lợi của vị đệ nhất đệ tử. Một lúc lâu sau, Phật xoa đầu chú Cunda, rồi bảo Thượng tọa Ànanda thu xếp cho chú được đi theo kề cận Phật. Thượng tọa Ànanda nói :

Bạch Thế Tôn, khi con nghe tin sư huynh viên tịch, con thấy bủn rủn cả chân tay, và đầu óc con mất hết sáng suốt. Con buồn quá.

Này Ànanda, sư huynh của thầy khi nhập diệt có mang theo hết giới, định, tuệ và sự giải thoát của thầy đâu ?

Bạch Thế Tôn, không phải như thế. Con nghĩ sư huynh Sàriputta lúc còn sanh tiền đã phục vụ Chánh Pháp và Thế Tôn rất đắc lực trong mọi lãnh vực, từ việc hoằng pháp đến việc tổ chức an cư kiết hạ và hướng dẫn chúng con mỗi khi ai có điều gì chưa hiểu rõ hoặc chưa biết cách thực tập thế nào cho đúng phép. Bây giờ cả hai sư huynh Moggallàna và Sàriputta đều không còn nữa. Giáo đoàn đã bị mất mát lớn. Chúng con cảm thấy trống trải, bơ vơ, thương tiếc một vị sư huynh từng ân cần lo lắng chỉ dạy cho chúng con mỗi khi Thế Tôn vắng mặt.

Này Ànanda, Như Lai đã nhiều lần nhắc nhở thầy là hễ có sanh thì có diệt, có hội ngộ thì có phân ly. Các pháp hữu vi đều như thế, biến đổi không dừng, thành, trụ, hoại, không. Chúng ta nên xem các pháp hữu vi như giọt sương mai trên đầu ngọn cỏ, như hình ảnh trong bong bóng nước, như tia chớp khi trời mưa, như hoa đóm giữa hư không. Nhưng nếu chúng ta biết sống với thực thể, thực tánh của vạn vật, chúng ta sẽ thấy vạn vật cùng một thể tánh, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm[10]. Này Ànanda, hai vị sư huynh của thầy không hề mất. Tinh thần Moggallàna và Sàriputta vẫn còn đó, sự nghiệp của Moggallàna và Sàriputta vẫn còn đó, tư tưởng và lời nói của Moggallàna và Sàriputta vẫn còn đó, nơi thầy, nơi Như Lai, nơi các vị khất sĩ, nơi chú tiểu Cunda, nơi các tinh xá, nơi các lối đi, nơi cội cây, nơi bãi cỏ, ở khắp mọi nơi. Này Ànanda, thầy hãy bình tâm, dừng vọng tưởng, để nhìn thấy bản thể thanh tịnh trường tồn của hai vị sư huynh của thầy. Này Ànanda, Sàriputta là giác ngộ, là trí tuệ và tình thương rộng lớn, chứ Sàriputta nào phải là mớ tro tàn trong bình đựng xá lợi này đâu. Này Ànanda, thầy không nên để tâm mình bị vướng mắc vào các pháp hữu vi. Thầy nên biết Yasodharà là tình thương, Sudattà là nguyện lớn, Moggallàna là hiếu thảo, Mahàkassapa là tri túc, Punna Mantàniputta là hoằng pháp, Anuruddha là tinh tấn. Có bao giờ những tinh thần đó biến mất trên thế gian này đâu.

Vua xứ Kosala được tin, sai sứ đến thỉnh y bát và xá lợi của Thượng tọa Sàriputta về Sàvatthi và xây tháp thờ tại Jetavana[11]. Về sau, dân làng và Phật tử cũng có xây một tháp khổng lồ bằng gạch thờ ngài Sàriputta tại viện Đại Học Phật Giáo Nàlandà


[1]Xem Trường Bộ 16: kinh Mahà Parinibbàna; Trường A Hàm 2: kinh Du Hành; Tương Ưng Bộ, chương 55, kinh 8: Giảng Đường Bằng Gạch; Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 2: 75,76.

[2]Năm hạ phần kiết sử : tham, sân, thân kiến, giới cấm thủ, hoài nghi. Năm thượng phần kiết sử : sắc ái, vô sắc ái, trạo cử, ngã mạn, vô minh (chưa được tam minh).

[3]Ba kiết sử : thân kiến, giới cấm thủ, hoài nghi.

[4]Nhìn vào Gương Chánh Pháp là nhìn vào gương sáng của đức Phật, nương theo giáo lý của đức Phật, noi theo phẩm hạnh của chư thánh Tăng để tự biết mình tu tới đâu.

[5]Xem Trường Bộ 16: kinh Mahà Parinibbàna; Trường A Hàm 2: kinh Du Hành; Tương Ưng Bộ, chương 47, kinh số 9: Bệnh tại Beluva.

[6]Xem Tiểu Bộ, Trưởng Lão Ni Kệ 66: Ambapàli.

[7]Dục lậugồm các phiền não ràng buộc chúng sanh vào cõi dục; hữu lậugồm các phiền não ràng buộc chúng sanh vào cõi sắc; vô minh lậugồm các phiền não ràng buộc chúng sanh vào cõi vô sắc.

[8]Xem The Buddha and the Gospel of Buddhism, trang 66-67.

[9]Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 140-141; Tương Ưng Bộ, chương 47, kinh 13: Cunda; Tiểu Bộ, Chuyện Thiên Cung, kinh 35: Lâu đài của Sesavati.

[10]Nhà bác học Lavoisier của Pháp vào thế kỷ 18 đã xác nhận: “Dans l'univers, rien ne se perd, rien ne se crée, tout se transforme” (Trong vũ trụ, không có gì mất đi, không có gì sinh ra, tất cả đều biến đổi).

[11]Tháp thờ y bát và xá lợi của ngài Sàriputta là tháp số 5 theo đồ hình Jetavana hiện nay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4785)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6781)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4952)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10206)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3695)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4922)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5125)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7988)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4318)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13622)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]