Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Bị ma ám

27/11/201311:38(Xem: 19046)
09. Bị ma ám

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An



9. Bị ma ám





Khi còn nhỏ, cũng giống như tất cả những đứa trẻ khác, tôi thích nghe kể chuyện. Chúng tôi ngồi xung quanh ông nội để nghe ông kể chuyện dân gian. Người lớn cũng thích nghe ông nội kể chuyện, và những lúc đó bầu không khí rất nồng ấm. Các bà các cô may vá và đan áo, còn bọn trẻ chúng tôi thì hào hứng. Tôi thừa hưởng tài kể chuyện của ông nội nên sau khi lập gia đình, tôi thường kể chuyện cho các con của tôi và trẻ con hàng xóm nghe.

Dân nông thôn của chúng tôi tin ma quỷ và tin những chuyện về tâm linh khác. Đa số chúng tôi đã gặp ma rồi. Có một loại ma được gọi là "kyirong"có thể hiện ra với nhiều hình dạng khác nhau, như con trai, con gái hay một con mèo lông xù. Tôi đã gặp loại ma này nhiều lần và nó đã làm cho tôi sợ và khổ bốn lần.

Một hôm khi tôi bị bệnh nặng, ma "kyirong" xuất hiện bên tôi trong hình dạng một cô gái nhỏ. Nó mang cho tôi một tô lớn trà Trung Hoa và đánh nhẹ trên đầu tôi. Lúc đó tôi đang nằm trên giường, khi nó đánh tôi, tôi thức dậy vì tiếng động lớn đó, dù tôi không thấy đau gì cả. Nó mời tôi uống trà, nhưng tôi từ chối. Khi cố gắng ngồi dậy trên giường, tôi nhận thấy cái tô đó đựng máu. Con ma vừa cười vừa đi ra cửa rồi biến mất.

Ở Tsongkha có một nhà kia có ma "kyirong" thường trực ở trong nhà. Gia đình này khá giả, nhưng cũng vì con ma này mà không có nhà nào chịu gả con gái cho họ, và dù con gái của gia đình này đẹp hay tài giỏi bao nhiêu cũng không có ai muốn hỏi cưới, vì người ta sợ. Cuối cùng người chủ gia đình làm cái roi bằng lông cừu, vung roi quất xung quanh nhà và nói: "Dù mày đen hay trắng, hãy hiện ra ngay. Vì mày mà các con của tao không lấy được vợ, được chồng". Con ma hoảng hốt và nó không thể ở lại trong nhà đó nữa. Chỉ sau sự kiện này, con trai và con gái nhà đó mới lấy được vợ hay chồng. Tôi nghe nói con ma này chặn người đi đường để nói với họ rằng họ không biết thế nào là không được tự do, nó nói nó rất nhớ nhà của nó.

Ma "kyirong" cũng xuất hiện ở Lhasa. Chúng tôi đã mua một con ngựa của gia đình mà con ma đã trú ngụ, và mang con ngựa theo với chúng tôi đến Lhasa. Tôi đã nằm mộng thấy một người đi vô chuồng ngựa của chúng tôi rồi cưỡi con ngựa đó đi ra, lúc đó con ngựa đang bị bệnh. Khi tôi nói với chồng tôi về giấc mộng này, ông ấy nói con ngựa chắc chắn sẽ chết. Khi trời tối con ngựa đó đã chết.

Ma "kyirong" là một nhân vật rất xấu. Nếu nó không thích ai, nó sẽ làm cho nhà cửa của người đó đảo lộn, mang đồ đạc và thức ăn ra ngoài vườn. Nó phá mọi thứ ở trong bếp, những túi lớn đựng bột mì và đậu bị lật đổ, mọi thứ sẽ lộn xộn. Con ma này có thể nghe hiểu những gì người ta nói với nó và đáp lại bằng những tiếng cười. Nó ăn cắp mọi thứ để ăn nhưng không bao giờ ăn cắp tiền.

Có lần khi tôi và con gái tôi uống trà, tôi bảo cô bé đi lấy phần thịt cừu còn dư từ bữa trước, cô bé đi tới tủ đồ ăn, nhưng phần thịt cừu đó đã biến mất. Ma "kyirong" đã lấy nó rồi. Có nhiều khi chúng tôi làm bánh nhân thịt, những xửng hấp ở trên thì đầy bánh nhưng những xửng ở dưới thì không còn cái bánh nào cả.

Ở quê hương tôi, ma "kyirong" được dung dưỡng ở một nhà hàng xóm. Nó xin chủ nhà cho nó ở đó, và đáp lại nó sẽ mang cho chủ nhà bất cứ cái gì ông muốn. Có lần một người thợ giày Hồi Giáo tới ở nhà đó trong mười ngày để làm giày. Người thợ giày nhận thấy có một căn phòng luôn được khóa kín. Không có ai đi vô hay đi ra căn phòng ấy, nhưng ở bên trong có những tiếng động lớn vang ra, cứ như là có người nào đang ngủ và ngáy ở trong đó. Người thợ giày biết ngay là ma "kyirong" đã được cho ở trong căn phòng này. Một hôm khi chủ nhà ra đồng ruộng, người thợ giày mở cửa căn phòng bước vô nhìn, người đó thất kinh hồn vía khi thấy một con mèo lớn bằng con cọp có râu trắng dài, đang nằm nghiêng và ngủ giống như một con người vậy.

Một người hầu gái của tôi có một bà dì sau khi lấy chồng nhiều năm sinh được một con trai. Một đêm bà ta thấy đứa con sơ sinh của mình đã chết, cổ của nó bị vặn gãy. Sau đó con ma "kyirong" nói với người ta rằng nó giết đứa bé vì ganh tỵ khi thấy cha mẹ đứa bé nâng niu đứa con của mình.

Cái chết của bốn đứa con của tôi cũng là do loại ma này. Sau khi sinh con trai Norbu[1], tôi có hai con trai đều bị chết. Một người con sau khi ra đời được mười ngày thì bị bệnh mắt nặng. Mắt nó sưng lên không thể mở ra được dù vào lúc cho ăn. Vào ban đêm khi ngồi bên cạnh nó, tôi nghe tiếng bước chân nặng nề vang lên ở trên trần nhà và đi lần xuống cửa sổ, rồi cánh cửa tự động mở ra, và con ma "kyirong" tới đứng cạnh tôi. Tôi sợ hãi, vội thắp mấy cái đèn lên rồi ôm con vào lòng, nghĩ rằng như vậy con ma sẽ không làm hại được con tôi. Mấy cây đèn thấp dần dần, cho tới khi tôi chìm trong bóng tối không nhìn thấy gì cả, tôi mất hết cảm giác về thực tại và thời gian. Một lúc sau, tôi nghe có tiếng trẻ con khóc ở xa….. Mở mắt ra, tôi hoảng hốt khi thấy con tôi nằm trên sàn cách tôi ba thước và đang khóc. Đèn lại được thắp sáng lên, tôi vẫn đang ngồi thẳng. Tôi không biết tại sao con tôi lại ở trên sàn cách xa tôi.

Trong mười bốn ngày sau đó, con tôi bị bệnh nặng, hai mắt sưng rất lớn, nó khóc liên tục, và tôi không thể nào dỗ cho nó nín được. Một buổi sáng tôi đã thấy có những vết cào rướm máu ở trong và xung quanh hai mắt nó, và có những vết máu trên má nó. Ba tuần sau nó không khóc nữa, nhưng nó có vẻ không có sự sống. Rốt cuộc nó mở mắt ra, tôi hoảng sợ khi thấy hai tròng mắt mầu nâu của nó đã trở thành mầu xanh. Nó bị mù.

Sau đó một thời gian, con ma này lại tới với chúng tôi, lần này trong hình dạng một ông già. Sau khi nó xuất hiện, mắt của con trai tôi lại sưng nữa. Con gái lớn nhất của tôi cũng bị đau mắt và sưng mắt. Nó bị mọc một cái mụt ở trong mắt cho tới khi nó chết. Lần này con trai của tôi không sống nổi. Nó chết khi mới được một tuổi.

Sau đó ít lâu, tôi lại sinh một con trai. Đứa con này là niềm vui của chúng tôi. Nó thông minh và lanh lợi, nhưng vì lý do nào đó, trẻ con hàng xóm sợ nó. Nếu muốn chơi ở xung quanh nhà tôi, trước hết chúng sẽ hỏi con trai của tôi có ở đó hay không, nếu có, bọn trẻ hàng xóm sẽ chạy trốn ở chỗ khác. Nó rất linh hoạt, luôn luôn ở quanh váy của tôi và xin kẹo bánh. Không may là ma "kyirong" cũng làm hại đứa trẻ này của chúng tôi. Nó bất ngờ bị bệnh tiêu chảy, không có nguyên nhân rõ ràng, nó bị bệnh trong một đêm rồi chết ngay khi mới mười tám tháng tuổi.

Vào đêm nó chết, bà dì của chồng tôi nằm mộng thấy một người lạ tới nhà chúng tôi, và khi đi ra người đó cõng đứa con nhỏ của chúng tôi trên lưng. Bà biết ngay là đã có điều gì không lành xảy ra trong nhà. Ma "kyirong" là cái mà tôi sợ nhất trong đời.




[1] Norbu là con thứ nhì của bà Diki Tsering, sinh năm 1922.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3010)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20294)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3867)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8394)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7966)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9469)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4733)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2921)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4075)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3740)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]