Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Lên Non

01/11/201204:11(Xem: 8879)
10. Lên Non
NGƯỜI TRỒNG HOA VÀ CHÀNG TU SĨ
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Lên Non




Trên con đường mòn nhỏ dẫn vào khu rừng u tịch, khi ấy vào khoảng giờ Thân, một kiếm khách giang hồ đang lê từng bước chân khập khiễng ra vẻ không còn hơi sức. Trong ánh chiều tà, y cúi gập tới đằng trước, bóng đổ dài theo vệ đường; tay trái chống lên đầu gối trái, tay phải quài ra sau nắm chặt đốc kiếm; cứ thế, y tiến lên, chậm rãi, mệt mề...

Đến chân dốc đứng cheo leo cạnh chiếc cầu gỗ mục, y dừng lại thở một hơi dài...

Đấy là một thanh niên cường tráng, vận chiếc lam y đã thủng rách nhiều chỗ, đầu quấn chiếc khăn xanh lấm len những vệt máu đã khô cứng. Trên khuôn mặt sạm đen phong trần, thanh tú, những vệt sây sứt do đao kiếm còn hằn những nét chỉ đỏ, chợt ứa ra những giọt lệ nóng hổi. Y khóc. Y khóc mà đôi mắt đen tròn đầy đặn không hề động đậy. Từng giọt, từng giọt như được rỉ ra từ hai kẻ hở của một sườn núi yên lặng, bò qua má, xuống cằm, từ từ qua cổ rồi len thấm vào vuông áo vải. Tay phải của thanh niên vẫn không rời đốc kiếm, y chậm rãi quay lại rồi đứng bất động, đăm đăm nhìn vào phương trời mù mịt dưới xa - nơi y đã đi qua - bây giờ chỉ còn bàng bạc trong màu khói lam nhạt của chiều hôm.

Một cánh chim rừng từ tàng cây sanh phủ dày bên bờ suối kêu chiêm chiếp rồi tung mình khuất sau rặng cây xanh. Cảnh núi rừng trong buổi xế tà tịch mịch lạ.

Chợt có tiếng vó ngựa từ xa vọng lại. Một chốc, từ cuối con đường dốc thoải, bóng con tuấn mã hiện ra, càng lúc càng rõ nét. Trên lưng ngụa, một cô gái chừng hơn hai mươi tuổi, ngang lưng đeo một thanh trường kiếm, dung mạo chim sa cá lặn. Người chưa đến mà tiếng nói đã vang vang cả một triền thung lũng:

- Sư ca ơi.. Sư ca! Sao sư ca đành đoạn bỏ tiểu muội mà đi! Sư ca ơi... sư ca!

Bóng ngựa lướt nhanh cuốn theo vó một luồng bụi đỏ. Thoáng thấy thanh niên, cô gái buông lỏng dây cương, trong mắt thoáng hiện nỗi vui mừng. Nàng nhảy xuống ngựa, nụ cười tươi như hoa:

- Sư ca! Sao sư ca nhìn sững tiểu muội như thế? Sao sư ca bỏ đi mà không nói với tiểu muội một lời?

Thanh niên chẳng có một xúc cảm nào từ khi cô gái xuất hiện. Những hạt lệ đã khô nhưng tròng đen vẫn giữ nguyên vị trí không hề lay động. Một chiếc lá vàng nhỏ rơi xuống, chao lượn mấy vòng giữa không gian rồi bám hờ trên vai áo, cũng yên lặng.

Cô gái quấn cương qua đầu con ngựa bạch, vuốt lại chiếc khăn hồng, sửa lại đốc kiếm rồi khoa đôi hài nhung đỏ bước lại gần.

- Tiểu muội đã ruổi ngựa mấy chục dặm đường mới theo kịp sư ca. Lạy trời run rủi, chứ sư ca rồi như chim rừng hạc nội biết đâu mà tìm!

Cô gái đứng dừng lại cách thanh niên khoảng vài trượng.

- À! Sư ca bị thương ư?

Nàng chợt như hốt hoảng rồi tiếp:

- Ai? Ai có thể làm cho sư ca bị thương? Tên đại ma đầu nào đã dùng độc kế ám toán sư ca?

Thanh niên không trả lời, tay phải của y vẫn còn trong tư thế quài ra phía sau nắm chặt đốc kiếm.

- Rẹt...!

Một làn sáng xanh nháng lên, cô gái đã rút kiếm ra khỏi vỏ, đôi mắt long lanh, miệng mỉm nụ cười dịu dàng:

- Sư ca ơi! Giang hồ từ các mạn sông Hoài, sông Trường, cho chí Yên Kinh, Trường An, Giang Nam thường đồn đãi rằng: Không kiếm Trấn ma Đỗ Đồng Triều chưa một lần đào thoát dù một phần sống, ngàn phần chết. Thế thì hôm nay phải có sự bí mật nào nên sư ca mới bỏ chạy?

Thanh niên nhúc nhích tia mắt, bình thản nhìn qua hướng cô gái, mấp máy môi trả lời:

- Ta không chạy. Ta đi!

Cô gái quay thanh kiếm một vòng trên không, những ngón tay trắng hồng như búp sen khẽ nắm đầu mũi kiếm, cười nói:

- Ồ! Thế thì tiếng đồn quả đã không ngoa! Sư ca ạ, sư ca đi, nghĩa là sư ca đã đơn thân đại thắng quần hồ?

- Ta không thắng!

Cô gái dùng ngón tay trỏ búng mũi kiếm lên cao, thân kiếm lượn nửa vòng hình bán nguyệt, đốc kiếm rơi nhẹ nhàng vào bàn tay phải của nàng.

- Sư ca bị thương khắp người như thế thật là đau lòng tiểu muội lắm! Vô lẽ sư ca lại bại?

- Ta không bại!

Cô gái tròn xoe đôi mắt:

- Ồ! Có kỳ lạ không chứ? Giang hồ cũng thường đồn đãi rằng: Không kiếm Trấn ma Đỗ Đồng Triều là một kiếm khách của Phật môn, y không bao giờ nói dối!

Thanh niên vẫn đáp hờ hững:

- Phải mà. Ta không hề nói dối!

Cô gái đôi mắt long lên, chiếc hài nhung đỏ bên phải chợt nhích tới, bước qua trái nửa bộ, tay trái quàng ra sau, tay phải đưa mũi kiếm chênh chếch lên trời.

- Sư ca ơi! Điều này tiểu muội cũng có nghe đồn, nhưng hôm nay mới được mục kích tận tường. Không kiếm Trấn ma Đỗ Đồng Triều thường dùng bất biến mà ứng với vạn biến; tay phải y luôn hờm sẵn đốc kiếm, tư thế dung mạo dường như buông thả hững hờ mà nội khí thường huân tụ cụ túc ở thượng phần đơn điền; bao giờ y cũng là kẻ xuất chiêu sau mà chiếm thượng phong.

- Phải rồi!!

- Bởi vậy tiểu muội cũng ngại lắm nên thủ bộ trước.

- Thế là phải. Từ lúc hạ sơn đến nay, ta chưa một lần chiếm tiên cơ của thiên hạ. Còn điều này nữa, ta tuyệt đối không ra chiêu đối với sáu hạng người.

- Ồ! Vậy ư? Điều đó thì tiểu muội chưa nghe được rõ ràng, phải tự miệng sư ca nói ra tiểu muội mới tin được.

- Thứ nhất là sa-môn và ni cô; thứ hai là lão phu lão phụ; thứ ba là kẻ tật nguyền; thứ tư là đàn bà mang thai; thứ năm là trai gái vị thành niên; thứ sáu là kẻ đã ngã ngựa...

- Ồ! Thật là bậc đại nhân đại dũng! Tây Sơn Cuồng Khách Mạc Chấn Vi, Nam Nhạc Túy Tiên Lãng Thụy Ông mà còn phải hạ kiếm nếu nơi nào có sự xuất hiện của Không kiếm Trấn ma thay; huống hồ gì tiểu muội chỉ là một yêu nữ hồng quần tiểu tốt vô danh! Xin sư ca dong thứ.

- Khỏi. Ngươi cứ xuất chiêu đi!

- Sao sư ca lại nói thế? Tấm lòng của tiểu muội đối với sư ca thế nào thì sư ca đã biết. Tiểu muội nào dám xuất chiêu với sư ca. Tiểu muội chỉ đề phòng những khi sư ca hắt hủi tiểu muội mà ra đòn thẳng tay bất ngờ đấy thôi. Sư ca ơi! Sư ca tệ bạc với tiểu muội lắm, sư ca biết không?

Thanh niên im lặng.

Cô gái giọng nói càng lúc càng thê lương:

- Sư ca bị thương, tiểu muội thấy mình như đoạn từng khúc ruột, những muốn kề bên để han hỏi, lương liệu thuốc thang mà sư ca cứ mặt lạnh như tiền, quả tim thì trơ trơ như đá. Vậy lỡ sư ca có mệnh hệ nào thì tiểu muội đành ôm hận mà về chín suối thôi.

- Phải rồi! Ta bị cả hàng chục vết thương, giờ không còn một chút khí lực nào. Ngươi có muốn giết ta thì ra tay đi, vĩnh viễn ta chẳng đem lòng oán hận. Ngươi nói nhiều quá!

- Thế ư? Tiểu muội cảm nghe trong hơi thở và giọng nói của sư ca có vẻ như là “trung khí bất túc”. Điều này chứng tỏ sư ca bị cả nội lẫn ngoại thương, nhưng tại sao sư ca vẫn hờm sẵn đốc kiếm như vậy?

Thanh niên cười rộ:

- Ồ! Ta có cố ý thủ kiếm đâu.

Cô gái có vẻ tức tối:

- Thế thì tay ai quài ra sau đốc kiếm như thế?

- Tay ta chứ ai!

Cô gái hét lên:

- Trước mắt tiểu muội mà sư ca còn nói dối đến mặt dạn mày dày thế ư?

Thanh niên chợt hú lên một tiếng dài, khu rừng vang động không ngớt; những cánh chim chiều từ trong các lùm cây tán loạn bay lượn tứ tung; chung quanh đấy khoảng vài trượng, lá cây rụng rã ào ào như bị một cơn lốc bão.

- Hồng Diện Nương! Hồng Phấn La Sát! Đỗ Đồng Triều này dù sao cũng là kẻ nam nhi trên đời, một lời nói ra xem nặng bằng non, còn tin hay không tin đó là quyền của ngươi. Tiếng sư tử hống vừa rồi là kết tụ của tất cả chân khí còn lại. Ngươi hạ thủ đi thôi!

Thấy thanh niên đã bị thương trầm trọng mà còn thần oai lẫm lẫm như thế, cô gái không rét mà run. Khi thanh niên cất tiếng hú thì cô gái đã hoành thân nhảy vọt ra xa, bây giờ đã trở lại.

- Tay sư ca rõ ràng đang thủ hờ đốc kiếm mà sư ca cứ bảo rằng không. Tiểu muội chẳng dám trách ai mà chỉ tủi phận mình đã chọn lầm thần tượng. Thôi, từ rày tiểu muội chẳng dám quấy rầy bậc quân tử nữa! Giang hồ mênh mông ắt hẳn còn có ngày tái ngộ...

Cô gái nói xong, hạ thanh kiếm xuống, cúi đầu theo tư thế “liên hoa nghinh Phật”, kiếu từ...

Thanh niên đôi mắt sáng rực như điện rồi buông rủ xuống, lờ đờ, nói lớn:

- La sát yêu hoa tiễn! Hay lắm!

Thanh niên nói chưa dứt thì ba mũi ám tiễn từ phía cô gái đã bay đến trước mặt nhanh như luồng sao xẹt, hướng đến các trọng huyệt ở cổ và ở tay - những mũi tên đằng chuôi có đính những bông sen nhỏ bằng lụa không ngớt rung rinh.

Cô gái phóng ám khí xong, nhún mình một cái, người đã lạng ra xa, đứng vừa vặn trên một tảng đá cao.

- Sư ca ơi! Tiểu muội cung kính dùng thế “liên hoa nghinh Phật” để dâng tặng sư ca ba đóa hồng liên, chứng tỏ tiểu muội thương kính sư ca như thần như Phật, sao sư ca không hoan hỷ đưa tay đón nhận mà lại bỡn cợt dùng nội lực hút dính vào người như thế? Sư ca coi thường tiểu muội như thế thì thôi!

Khuôn mặt thanh niên thoáng chốc biến đổi, nhưng y đã gượng lấy sắc bình thường rồi nói:

- La sát yêu hoa tiễn chỉ một vài khắc là độc tố lan khắp cơ thể, chạy đến tim thì dù Biển Thước, Hoa Đà cũng không còn cơ cứu vãn. Hồng Phấn nương tử! Ta tuyệt đối không thù hằn gì ngươi cả, nhưng trước khi chết, ít nhất ngươi cũng cho ta hiểu rõ ngọn nguồn, tại sao ngươi lại oán độc đối với ta lắm vậy?

- Sư ca nói thế thì thôi! Tiểu muội đem lòng thương tưởng sư ca đã không hết thì có đâu lại để dạ oán ghét sư ca? Tiểu muội trộm nghĩ rằng, sư ca là một kỳ nam tử, là một đóa hoa ưu tú trong võ lâm, nếu không giữ sư ca cho riêng mình thì làm sao một nữ ma đầu như tiểu muội lại tranh đoạt nổi với giang hồ, với những hạng thuyền quyên thục nữ trong đời?

- Vì vậy nên ngươi giết ta?

- Tiểu muội không giết. Tiểu muội không hề giết sư ca. Giết sư ca thì tiểu muội làm sao còn sống được?

Thanh niên mỉm cười dịu dàng:

- Ngươi không giết ta thật, mà ngươi chỉ phóng ba mũi tên kỳ độc vào cái thân “ngũ ấm vốn không” này thôi!

- Không phải mà! Sư ca nhạo tiểu muội làm chi!

Thanh niên nghiêm trang nhìn cô gái, buông từng tiếng một:

- Ngươi làm việc ác đức, ta ngăn. Ngươi vì tình ái hoang dâm mà giết người vô cớ, ta cấm. Bao giờ ta cũng nhún nhường, nhã nhặn tìm cách dẫn ngươi về với lương tâm, về với con đường phải. Trong quãng đời hành hiệp, ta chưa một lần vô lễ với ngươi? Ở Trường An năm xưa, đã hai lần ta cứu ngươi thoát khỏi bàn tay dâm đầu của Đại Diệu Thủ Phong Tình Khách. Và không dưới bảy lần ta đưa ngươi ra khỏi sự vây bủa của Đông Hải Triêu Dương Bang. Đã biết bao nhiêu lần ngươi gài bẫy ta phạm những giới cấm của sư môn, dẫu thế, ta chẳng phiền trách gì ngươi mà chỉ tìm cách dẫn ngươi về với chánh đạo...

Nghỉ một chút dường như để lấy lại khí lực, thanh niên tiếp:

- Thế đấy! Hồng Phấn nương tử ơi! Dẫu ở gần hay xa, dẫu ngươi tội lỗi nhiều hay ít, ta chưa bao giờ dám khinh ngươi. Trong ta, không có oán ghét và thù hận... Thế mà... bây giờ ngươi lại giết ta.

Thanh niên nói một thôi dài, người y cúi gập xuống. Thiếu nữ òa khóc.

- Sư ca ôi! Tiểu muội không giết, tiểu muội yêu sư ca còn hơn là mạng sống của mình nữa!

Thanh niên thở ra, khuôn mặt ngả màu tím đen, đôi mắt lờ đờ, miệng lẩm nhẩm:

- Phàm kẻ xuống núi hành đạo, trước tiên là phải có kiếm, có ma. Thầy đặt Pháp danh cho con là “Không kiếm Trấn ma”, có phải là để cho con ngộ được điều này: Kiếm tuy có mà cũng dường như không, dùng tâm mà vệ đạo giáng ma chứ không phải dùng kiếm mà vệ đạo giáng ma! Kiếm ấy chỉ là phương tiện hạ thừa. Bao nhiêu năm qua, kiếm này đã coi như không, mà ma kia vẫn còn đó... Thế thì... Thế thì... Ta đã “Không kiếm Trấn ma chưa?”

Một cơn gió núi lạnh lẽo lùa qua, thanh niên đôi chân run run lảo đảo, nhưng y cố trấn tỉnh gượng đứng lại... Chợt trong tiếng gió, y nghe rõ mồn một giọng nói khàn khàn, già nua:

- Không kiếm Trấn ma con! Không kiếm Trấn ma chỉ mới là giai đoạn đầu tiên của một hành giả kiếm đạo. Cuối giai đoạn ấy, con phải thật sự thấy rõ “kiếm đã không rồi mà ma kia cũng không!”

Thanh niên chợt ngửa mặt nói lớn giữa hư không:

- Thầy ơi! Gần một năm nay con đã không hề trả chiêu. Có kiếm mà cũng dường như không, có ma mà cũng dường như không, vậy thì có phải...

- Thế thì ta sẽ cho con lên non. Lên non để con có cơ hội thể nghiệm cái chặng đường cuối cùng của một hành giả kiếm đạo: người cũng không!

Thanh niên chợt mỉm cười, vừa nói vừa đổ ập chiếc thân về phía trước:

- Hay quá! Thầy ơi! Con đã được lên non. Hay quá! Thầy ơi! Kiếm không, Ma không, mà Người cũng không!

Thiếu nữ chạy nhanh lại, nhổ mạnh mũi ám tiễn ở ngực và cổ. Khi đưa tay ra định nhổ mũi tên ở cánh tay cầm đốc kiếm, nàng sững lại: cánh tay thanh niên đã bị ai chém gãy rồi họ cột chặt vào đốc kiếm bằng sợi gân tê ngưu.

- Ồ! Y đã không nói dối!

Cô gái òa khóc, rồi chợt hớt hải lần tìm phương thuốc chữa thương. Núi rừng hoàng hôn đang đi vào sẫm tối.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3856)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3147)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2979)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2811)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3247)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2638)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4186)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3219)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3367)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]