Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[301 - 310]

13/02/201217:42(Xem: 8390)
[301 - 310]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 

301. TỔ PHẬT LỪA NGƯỜI

Long Nha dạy chúng, nói:

- Người tham học phải thấu đạt Phật Tổ mới được. Hòa thượng Tân Phong [Động Sơn Lương Giới] nói, “Nếu thấy lời dạy của Phật Tổ như thấy oan gia, thì mới đáng gọi là tham học. Nếu chẳng thấu được, tức bị Tổ Phật lừa.”

Lúc ấy có một ông tăng hỏi:

- Phật Tổ có ý lừa người chăng?

Long Nha nói:

- Nói tôi nghe, sông hồ có ý ngăn ngại người chăng?

Lại nói tiếp:

- Sông hồ không có ý ngăn ngại người, chỉ vì người qua chẳng được, thành ra sông hồ ngăn ngại người. Ông không thể nói sông hồ không ngăn ngại người. Tổ Phật không có ý lừa người, chỉ vì người chẳng thấu được, thành ra Tổ Phật lừa người. Lại nữa, ông không thể nói Tổ Phật chẳng lừa người. Nếu ai thấu được Tổ Phật, thì mới qua được Tổ Phật. Phải thấu đạt ý Tổ Phật, mới cùng với người xưa hướng thượng đồng nhau. Nếu ông chưa thấu qua được, dù có học Tổ học Phật ngàn kiếp, cũng không mong gì đạt được.

Ông tăng lại hỏi:

- Làm sao khỏi bị Tổ Phật lừa?

Long Nha đáp:

- Phải tự ngộ đi.

(Bích Nham Lục)

302. DỨT BỎ THẾ TÌNH MÊ HOẶC

Đông Sơn [Lương Giới] là con trai yêu quí của mẹ sư. Anh sư đã mất, người em trai thì nghèo, cha cũng đã qua đời. Nhưng khi thích cửa không, sư liền từ giã mẹ già, thề không ngộ Đạo không trở về quê gặp lại người thân. Sư ra đi với quyết tâm như thế.

Cuối cùng, Động Sơn đã hoàn tất thành công việc tham học. Mẹ sư, vì xa con, không ai trợ giúp, ngày nào cũng tìm sư; cuối cùng gặp một ông tăng hành cước. Khi nghe con trai đang ở đâu, bà muốn đi gặp con, nhưng Động Sơn từ chối -- sư đóng cửa không cho bà vào bởi vì sư không muốn gặp bà. Vì vậy, cuối cùng bà đã chết vì buồn rầu bên ngoài phòng con.

Sau khi mẹ chết, Động Sơn ra lấy cơm bà mang theo trộn với cháo buổi sáng của chúng tăng làm vật dâng cúng trong tang lễ. Trước đó đã lâu, mẹ sư đã hiện đến nói với sư trong một giấc mộng, “Bởi vì con kiên tâm không gặp mẹ, tình cảm mê hoặc ràng buộc đã chấm dứt tại chỗ này; nhờ hạnh lực, mẹ đã được sinh ở cõi trời tự tại.”

(Truyền Quang Lục)

303. LƯỚI TÌNH THẾ GIAN KHÔNG CÓ NGÀY DỨT

Sau khi thọ giới đầy đủ, sư [Triệu Châu] nghe bổn sư đã dời đến viện Hổ Thông ở phía tây Tào châu, vì vậy sư về đó lễ bái. Nhân dịp sư về, bổn sư của sư gửi tin về nhà nói, “Người con của gia đình thí chủ đi hành cước đã trở về.” Những người trong gia đình hết sức sung sướng, định hôm sau đến thăm. Triệu Châu nghe vậy bèn nói, “Lưới tình trần tục không có ngày dứt. Tôi đã khước từ và xuất gia. Tôi không muốn gặp họ lần thứ hai.” Đêm đó sư thu gói hành trang ra đi.

(Triệu Châu Ngữ Lục)

304. GỌI TRÂU ĐI TẮM

Khi Nam Tuyền tắm xong trở về phòng, thấy ông tăng lo việc phòng tắm đang nhóm lửa, bèn hỏi:

- Ông làm gì vậy?

Ông tăng đáp:

- Con đang nhóm lửa.

Nam Tuyền nói:

- Chớ quên gọi trâu đến tắm.

Ông tăng đồng ý.

Chiều hôm sau, ông tăng đến phòng Nam Tuyền, Nam Tuyền hỏi:

- Ông làm gì đó?

Ông tăng đáp:

- Gọi trâu đi tắm.

Nam Tuyền hỏi:

- Có mang dây thừng đến không?

Ông tăng không đáp được.

Khi Triệu Châu đến gặp Nam Tuyền, Nam Tuyền kể lại chuyện đã xảy ra.

Triệu Châu nói:

- Con có điều muốn nói.

Nam Tuyền hỏi:

- Vậy à, có mang thừng theo không?

Triệu Châu bước đến nắm mũi Nam Tuyền lôi vào phòng tắm.

Nam Tuyền nói:

- Được rồi! Được rồi! Đồ súc sinh!

(Triệu Châu Ngữ Lục)

305. HAI MẢNH NGỌC HỢP

Khi Vân Môn đến ngôi làng ở chân núi Tuyết Phong, sư gặp một ông tăng, bèn hỏi:

- Hôm nay thượng toạ có lên núi chăng?

Ông tăng đáp:

- Có.

Vân Môn nói:

- Tôi nhờ thượng toạ hỏi hòa thượng Tuyết Phong một câu, nhưng chớ nói đây là lời của người khác!

Ông tăng đồng ý và Vân Môn nói tiếp:

- Đến chùa rồi, khi thượng tọa thấy hòa thượng ngồi trên tòa cao trong pháp đường thuyết pháp. Ngay lúc tăng chúng tụ tập, thượng tọa hãy lập tức bước tới nói: “Này, ông già, tại sao không gỡ cái gông sắt trên cổ xuống đi?”

Ông tăng làm đúng theo lời chỉ dẫn của Vân Môn. Khi Tuyết Phong nghe ông tăng nói như thế, liền xuống tòa, thộp ngực ông tăng, bảo:

- Nói, nói, Nhanh lên!

Ông tăng không đáp được, Tuyết Phong buông ông ta ra, nói:

- Đây chẳng phải lời của ông.

Ông tăng khăn khăn nói là phải. Nhưng Tuyết Phong bảo:

- Thị giả, hãy mang thừng gậy ra đây.

Ông tăng thừa nhận:

- Đấy chẳng phải lời con, là lời của một thượng toạ từ Chiết trung đến, đang ở dưới làng. Ông ta dạy con đến nói với hòa thượng như thế.

Tuyết Phong bảo:

- Các ông trong hội, hãy xuống làng đón bậc thiện tri thức của năm trăm người!

Hôm sau Vân Môn lên núi. Vừa thấy sư, Tuyết Phong liền hỏi:

- Nhân đâu đến được chỗ ấy?

Vân Môn bèn cúi đầu. Từ đó họ khế hợp nhau như hai mảnh ngọc hợp.

(Vân Môn Ngữ Lục)

306. MẶC ÁO ĂN CƠM

Vân Môn hỏi Tào Sơn:

- Thế nào là phận sự của nạp tăng?

Tào Sơn đáp:

- Ăn cơm ruộng chùa.

Vân Môn nói:

- Nếu chỉ có thế thì thế nào?

Tào Sơn đáp:

- Ông ăn được không?

Vân Môn nói:

- Con ăn được.

Tào Sơn hỏi:
- Ông làm sao ăn?

Vân Môn đáp:

- Mặc áo ăn cơm có gì là khó?

Tào Sơn nói:

- Sao ông không nói ông đang mang da mọc sừng?

Vân Môn lễ bái.

(Vân Môn Ngữ Lục)

307. AI LÀ KẺ KHÔNG CÙNG MUÔN PHÁP LÀM BẠN

Vào đầu niên hiệu Trinh Nguyên [785-804] đời nhà Đường, Bàng cư sĩ tham kiến Thiền sư Thạch Đầu, hỏi:

- Ai là kẻ không cùng muôn pháp làm bạn?

Thạch Đầu lấy tay bịt miệng cư sĩ. Cư sĩ liền lãnh hội!

Một hôm Thạch Đầu hỏi:

- Từ khi ông gặp tôi đến nay, chuyện hằng ngày của ông thế nào?

Cư sĩ đáp:

- Khi hòa thượng hỏi con chuyện hằng ngày, con thực chẳng thể mở miệng được.

Thạch Đầu nói:

- Chỉ vì biết ông như thế nên tôi mới hỏi.

Vì vậy cư sĩ trình bài kệ sau đây:

Hằng ngày chẳng việc khác,

Chỉ tôi tự hòa hài.

Mỗi mỗi không nắm bỏ

Chỗ chỗ chẳng trái ngăn.

Đỏ tía nào ai phân?

Đồi núi sạch bụi trần.

Gánh nước là diệu dụng,

Bổ củi ấy thần thông.

Thạch Đầu chuẩn nhận rồi hỏi:

- Ông sẽ mặc áo thâm hay tiếp tục mặc áo trắng?

Cư sĩ đáp:

- Con muốn theo sở thích.

Do đó, cư sĩ không cạo tóc hay nhuộm quần áo.

Sau đó, cư sĩ đến Giang tây tham kiến Thiền sư Mã Tổ. Cư sĩ cũng hỏi Mã Tổ cùng một câu hỏi đã hỏi Thạch Đầu:

- Ai là kẻ không cùng muôn pháp làm bạn?

Mã Tổ đáp:

- Đợi khi nào ông một hớp uống hết nước Giang tây, tôi sẽ nói ông biết.

Ngay câu nói này, cư sĩ bỗng nhận ra được huyền chỉ và trình bài kệ trong đó có câu: “Tâm không: thi đậu về.”

Cư sĩ ở lại hai để năm tu học với Mã Tổ.

Một hôm, cư sĩ hỏi Mã Tổ:

- Một người không mờ bản tánh xin hoà thượng nhìn lên.

Mã Tổ bèn nhìn thẳng xuống.

Cư sĩ nói:

- Hòa thượng một mình chơi đàn cầm hay lắm.

Mã Tổ liền nhìn thẳng lên.

Cư sĩ lễ bái. Mã Tổ trở về phương trượng.

Lúc ấy cư sĩ nói:

- Giờ đây lúng túng làm tài khôn.

Hôm khác, cư sĩ hỏi Mã Tổ:

- Nước chẳng gân xương sao đỡ được thuyền vạn hộc ?

Mã Tổ đáp:

- Ở đây nước thuyền còn chẳng có, nói chi đến gân xương?

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

308. CÂU HỎI NHẤT THỪA ĐÃ MẤT

Bàng cư sĩ đến viếng Thiền sư Dược Sơn. Dược Sơn hỏi:

- Ông đưa cái này vào Nhất thừa được chăng?

Cư sĩ nói:

- Mỗi ngày tôi chỉ kiếm ăn chẳng làm gì khác, làm sao biết có đưa được cùng không vào Nhất thừa?

Dược Sơn lại hỏi:

- Tôi nói ông chưa từng thấy Thạch Đầu có đúng chăng?

Cư sĩ đáp:

- Nắm một buông một chẳng phải là tay lão thông.

Dược Sơn nói:

- Trụ trì nhiều việc.

- Hãy trân trọng.

Cư sĩ nói và đi ra.

Dược Sơn nói:

- Nắm một buông một chính là tay lão thông.

Cư sĩ nói:

- Câu hỏi Nhất thừa đã mất.

Dược Sơn đồng ý:

- Phải, phải.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

309. CƯ SĨ CÓ ĐÂY KHÔNG?

Một hôm Thiền sư Đan Hà Thiên Nhiên đến viếng Bàng cư sĩ. Vừa đến cổng, thấy con gái cư sĩ, Linh Chiếu, đang cầm rổ rau, Đan Hà hỏi:

- Cư sĩ có đây không?

Linh Chiếu để rổ rau xuống đất, lễ phép chắp tay đứng im.

Đan Hà lại hỏi:

- Cư sĩ có đây không?

Linh Chiếu nhặt rổ rau lên, bỏ đi. Đan Hà ra về.

Lát sau, cư sĩ trở về, Linh Chiếu kể cha nghe câu chuyện. Cư sĩ hỏi:

- Đan Hà có đây không?

Linh Chiếu đáp:

- Ông ta đi rồi.

Cư sĩ nói:

- Đất đỏ sơn bằng sữa.

Sau đó, Đan Hà trở lại, mặc dù cư sĩ thấy sư đến nhưng chẳng đứng dậy cũng chẳng nói gì. Đan Hà dựng phất tử lên, cư sĩ dựng chày gỗ lên.

Đan Hà hỏi:

- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

Cư sĩ quan sát:

- Gặp thầy lần này chẳng giống gặp thầy lần trước.

Đan Hà nói:

- Cứ tiếp tục hạ danh dự tôi đi, tùy thích.

Cư sĩ nói:

- Lúc nãy thầy nhận một gậy rồi.

Đan Hà nói:

- Thế à? Rồi ông muốn bảo Thiên Nhiên này miệng câm.

Cư sĩ nói:

- Thầy câm là do bản tánh, bây giờ thầy lại đem cái câm làm khổ tôi.

Đan Hà hạ phất tử xuống, ra về.

Cư sĩ gọi:

- Xà lê Nhiên! Xà lê Nhiên!

Nhưng Đan Hà chẳng nhìn lại.

Cư sĩ nói:
- Y không những đã câm mà còn điếc nữa.

Hôm khác, Đan Hà lại đến viếng cư sĩ. Vừa đến cổng là họ gặp nhau.

Đan Hà hỏi:

- Cư sĩ có đây chăng?

Cư sĩ đáp:

- Người đói chẳng chọn thức ăn.

Đan Hà lại hỏi:

- Lão Bàng có đây chăng?

Cư sĩ kêu, “Hư! Hư!” rồi vào nhà. Đan Hà cũng kêu, “Hư! Hư!” rồi ra về.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

310. MỘT CÂU SAU CÙNG CHẲNG AI NÓ ĐƯỢC

Một hôm Đan Hà hỏi Bàng cư sĩ:

- Gặp nhau hôm nay so với hôm qua thế nào?

Cư sĩ đáp:

- Hãy chỉ tôi xem việc hôm qua thế nào, hãy chứng minh con mắt Thiền của thầy.

Đan Hà đáp:

- Con mắt Thiền, nó có thể để ông vào chăng, ông Bàng?

Cư sĩ nói:

- Tôi ở trong con mắt của thầy.

Đan Hà nói:

- Con mắt tôi hẹp. Làm sao có chỗ để thân ông vào?

Cư sĩ đáp:

- Con mắt này sao hẹp! Thân này sao để vào!

Đan Hà bèn thôi.

Cư sĩ nói:

- Nếu thầy nói một câu nữa thôi, chuyện này có thể thành toàn.

Đan Hà không đáp.

Cư sĩ nói:

- Chỉ câu tối hậu này thôi, chẳng ai nói được.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5687)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4618)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4229)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37087)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5301)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8674)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4396)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13212)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 20941)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6564)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]