Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[211 - 220]

13/02/201217:42(Xem: 8641)
[211 - 220]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 

211. ĐƯỜNG ĐẾN NIẾT BÀN

Một ông tăng hỏi hòa thượng Càn Phong:

- Chư bậc Đại Tự Tại mười phương đều do một đường thẳng đến Niết bàn. Dám hỏi con đường ấy bắt đầu từ đâu?

Càn Phong lấy gậy vạch một đường trên mặt đất, nói:

- Ngay đây.

(Chơn Không Gầm Thét)

212. LẠNH KHI LẠNH, NÓNG KHI NÓNG

Một ông tăng hỏi Thiền sư Động Sơn Lương Giới:

- Khi mùa hè hay mùa đông đến, chúng ta nên đi đâu để tránh?

Động Sơn bảo:

- Sao ông không đến nơi nào không có mùa hè và mùa đông mà ở?

Ông tăng hỏi:

- Có chỗ nào không có nóng và lạnh chăng?

Động Sơn đáp:

- Khi nóng đến thì nóng; khi lạnh đến thì lạnh.

(Chơn Không Gầm Thét)

213. NƠI KHÔNG SANH TỬ

Thiền sư Minh Lương ở núi Phù Lãng nghe hòa thượng Chuyết Công từ Trung Hoa sang, bèn tìm đế tham vấn.

Sư hỏi:

- Khi sinh tử đến làm thế nào trốn tránh?

Chuyết Công đáp:

- Chọn nơi không sanh tử trốn tránh.

- Thế nào là nơi không sanh tử?

- Ở trong sanh tử nhận lấy mới được.

Nghe nói thế, sư vẫn chưa ngộ.

Chuyết Công bảo:
- Hãy lui đi, đợi chiều sẽ đến.

Sư giữ đúng hẹn, chiều lại phòng phương trượng.

Chuyết Công bảo:

- Đợi sáng mai chúng sẽ vì ngươi chứng minh chứng.

Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ, liền sụp xuống lạy. Sư được Chuyết Công hứa khả và truyền tâm ấn cho.

(Thiền Sư Việt Nam)

214. AI BIẾT CÔ

Một ni cô hỏi Thiền sư Long Đàm:

- Con phải tu như thế nào để kiếp sau con có thể biến thành một ông tăng được?

Long Đàm hỏi:

- Cô làm ni bao lâu rồi?

Ni cô nói:

- Câu hỏi của con là, bao giờ con mới trở thành một ông tăng?

Long Đàm hỏi:

- Bây giờ cô là gì?

Ni cô đáp:

- Ai chẳng biết bây giờ con là ni cô.

Long Đàm hỏi:

- Ai biết cô?

215. BA CÂN GAI

Một ông tăng hỏi Động Sơn Thủ Sơ:

- Thế nào là Phật?

Thủ Sơ đáp:

- Ba cân gai.

Sau ông tăng đến hỏi hoà thượng Trí Môn:

- Con hỏi hoà thượng Động Sơn: “Thế nào là Phật?” Hòa thượng Động Sơn trả lời: “Ba cân gai.” Câu ấy ý nói gì?

Trí Môn đáp:

- Hoa từng nhóm, gấm từng khóm.

Ông tăng nói:

- Con vẫn chưa hiểu.

Trí Môn thêm:

- Trúc phương nam chừ cây phương bắc.

Ông tăng lại nói:

- Con càng nghe càng không hiểu.

Ông tăng trở về Động Sơn, thuật lại. Thủ Sơ nói:

- Ngôn ngữ chỉ là khí cụ để diễn đạt sự vật, chớ bám lời hại ý, chuốc lấy lầm lạc, mê mờ. Chẳng hạn, nếu lấy đá chọi chó, chó sẽ đuổi theo đá; nhưng nếu lấy đá ném sư tử, sư tử sẽ đuổi theo người ném. Khi tham ngữ cú Thiền các ông nên giống như sư tử, đừng giống như chó.

(Chơn Không Gầm Thét)

216. TUYẾT RƠI MẢNH MẢNH

Một hôm Bàng cư sĩ đến thăm Thiền sư Dược Sơn. Khi cư sĩ sắp ra về, Dược Sơn bảo hai Thiền khách tiễn cư sĩ:

- Xin chỉ đường cho cư sĩ.

Hai thiền khách đáp:

- Dạ, hẳn vậy.

Khi ra đến cửa chùa thấy tuyết đang rơi, Bàng cư sĩ nói:

- Chà, tuyết đẹp mảnh mảnh chẳng rơi chỗ khác.

Một Thiền khách hỏi:

- Rơi tại chỗ nào?

Bàng cư sĩ nói:

- Kìa xem các ông, mắt thấy như mù, miệng nói như câm, tự gọi mình là Thiền tăng chăng?

(Chơn Không Gầm Thét)

217. CẦU ĐÁ TRIỆU CHÂU

Gần viện Quan Âm của Thiền sư Triệu Châu có một chiếc cầu nổi tiếng, người ta gọi đó là cầu đá Triệu Châu.

Một hôm có người hỏi Triệu Châu:

- Tiếng đồn cầu đá Triệu Châu, đến nơi hóa ra chỉ là một chiếc cầu khỉ. Đâu là cầu đá Triệu Châu?

Triệu Châu nói:

- Ông chỉ thấy cầu khỉ mà không thấy cầu đá.

Người kia hỏi tiếp:

- Đúng vậy. Thế nào là cầu đá Triệu Châu?

Triệu Châu đáp:

- Đưa lừa qua, đưa ngựa qua, cùng tất cả những kẻ mê lầm trên thế gian.

(Chơn Không Gầm Thét)

218. RỬA CHÉN ĐI

Một ông tăng mới vừa vào viện Quan Âm, nhân lúc gặp phương trượng của viện là Thiền sư Triệu Châu, liền hỏi:

- Bạch hòa thượng, con mới nhập viện, xin hoà thượng từ bi chỉ dạy cho.

Triệu Châu hỏi:

- Ông ăn sáng chưa?

Ông tăng đáp:

- Dạ rồi.

Triệu Châu bảo:

- Rửa chén đi!

Ngay câu đó, ông tăng liền ngộ.

(Triệu Châu Ngữ Lục)

219. TRIỆU CHÂU HỎI ĐƯỜNG

Một ông tăng đang đi trên đường gặp một bà lão, liền hỏi:

- Tôi đang tìm đường đến Triệu Châu, bà có thể chỉ cho không?

Bà lão đáp:

- Cứ đi thẳng, đừng quẹo đông, đừng quẹo tây.

Khi gặp Triệu Châu, ông tăng liền nói:

- Trên đường đến đây, con có gặp một bà lão có vẻ hiểu Thiền lắm.

Triệu Chầu nói:

- Để tôi đi thử cho.

Nói xong, Triệu Châu đến gặp bà lão, hỏi:

- Tôi đang tìm đường đến Triệu Châu, bà có thể chỉ cho không?

Bà lão nói:

- Cứ đi thẳng, đừng quẹo đông, đừng quẹo tây.

Triệu Châu trở về viện nói với ông tăng:

- Bà lão chẳng biết gì cả. Chẳng phải Triệu Châu đứng ngay trước mặt bà ấy sao?

(Chơn Không Gầm Thét)

220. ĐIỂM CÁI TÂM NÀO

Thiền sư Tuyên Giám (780-865) họ Chu, quê ở Kiếm Nam, tỉnh Tứ xuyên. Sư xuất gia khi tuổi còn rất trẻ, nghiên cứu sâu rộng giáo điển. Sư học thuộc lòng kinh Kim Cang, vì vậy người ta gọi sư là Chu Kim Cang.

Sau đó, sư biết ở phương nam có địch thủ Thiền tông được rất đông người theo. Lửa giận bốc lên, sư nhằm phương nam thẳng tiến để đọ sức giáo lý với họ. Sau này sư dựng chùa ở Đức Sơn thuộc tỉnh Hồ nam, nên người ta gọi sư là Đức Sơn.

Bọn ma phương nam! Sao chúng dám nói Thiền là chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Ta sẽ nghiền nát ngòi bút của bọn phản đạo này. Vì vậy, sư gói bộ Thanh Long Sớ Sao, luận giải kinh Kim Cang, rời Tứ xuyên nhắm Hồ nam tiến bước.

Trên đường đi, sư gặp một bà lão bán đồ giải khát, vì đói bụng, sư nói:

- Xin lỗi, tôi muốn mua hai cái bánh bao để điểm tâm.

Bà lão thấy sư mang sách, liền hỏi:

- Thầy mang sách gì vậy?

Sư đáp:

- Đây là bộ Thanh Long Sớ Sao.

- Sớ ấy giảng kinh gì?

- Kinh Kim Cang.

- Này, tôi hỏi thầy một câu, nếu thầy đáp được, tôi sẽ biếu bánh bao không lấy tiền, chịu không?

-Được. Hỏi đi!

- Trong kinh Kim Cang nói: “Tâm quá khứ không thể giữ được, tâm hiện tại không thể nắm được, tâm vị lai không thể bắt được. Vậy chớ thầy muốn điểm cái tâm nào?”

- Ừm. . . tôi không thể nói được.

- Xin lỗi nhé. Tôi ước chừng thầy phải đi chỗ khác điểm tâm vậy.

(Chơn Không Gầm Thét)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3842)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3125)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2942)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2779)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3215)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2613)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4168)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3195)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3323)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]