Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[231 - 240]

13/02/201217:42(Xem: 8488)
[231 - 240]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 

231. ĐAN HÀ ĐỐT TƯỢNG CÓ Ý GÌ?

Sau khi đọc câu chuyện Thiền sư Đan Hà Thiên Nhiên đốt tượng Phật bằng gỗ trong một ngôi chùa nọ để sưởi ấm khi bất ngờ gặp thời tiết mùa đông quá lạnh, đệ tử hỏi thầy:

- Thiền sư Đan Hà đốt tượng Phật là có ý gì?

Sư liền đọc đoạn đầu câu nói sau đây của một Thiền sư khác:

Lạnh đến lò than bên lửa sưởi,

Đệ tử cắt ngang:

- Thế là Đan Hà không làm bậy, phải không?

Sư liền đọc đoạn còn lại:

Nóng ra bờ trúc cạnh khe ngồi.

(Chơn Không Gầm Thét)

232. CƯỜI VỚI ĐẤT TRỜI

Duy Nghiêm là một trong những Thiền sư vĩ đại thời nhà Đường. Sau khi đắc Pháp nơi Đại sư Thạch Đầu Hy Thiên, sư đến trụ ở Dược Sơn nên người ta gọi sư là Dược Sơn.

Một buổi chiều, khi sư dạo núi, bỗng nhiên mây mù biến tan biến, mặt trăng hiện ra, sáng ngời. Thấy vậy, sư chợt cười lên một tiếng sảng khoái.

Tiếng cười vang xa mấy dặm quanh vùng.

Sáng hôm sau dân làng nói với nhau:

- Đêm hôm qua tôi bỗng nghe một tiếng cười lớn lắm, nhưng không biết từ đâu.

- Ừ, tôi cũng nghe.

Chợt có một ông tăng từ trên chùa xuống, đi ngang qua nghe chuyện, liền nói:

- Đó là tiếng cười của hòa thượng đi dạo trên núi.

(Chơn Không Gầm Thét)

233. HƯƠNG NGHIÊM LEO CÂY

Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn nói với tăng chúng:

“Có người leo lên cây, dùng răng cắn cành cây, tay không chỗ bám, chân không chỗ bịn, mình buông thõng. Chợt có người đứng bên dưới hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp? Nếu người trên cây không trả lời thì phụ lòng người hỏi, còn nếu y trả lời thì sẽ té xuống gãy cổ. . .

Hãy nói tôi nghe, làm sao y thoát tình cảnh khó khăn này?”

Khi đó có một ông tăng bước ra, nói:

“Con không hỏi y phải làm gì khi ở trên cây, mà chỉ muốn biết trước khi leo lên cây thì y thế nào?”

Hương Nghiêm cười sảng khoái.

(Chơn Không Gầm Thét)

234. Ý KINH VÀ Ý TỔ

Có một ông tăng hỏi Thiền sư Giám Ba Lăng:

- Ý Tổ và ý kinh có gì khác nhau?

Sư đáp:

- Gà lạnh lên cây, vịt lạnh xuống nước.

(Chơn Không Gầm Thét)

235. NHÌN MÀ KHÔNG THẤY

Một hôm, khi Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện đang lao động trên rẫy, một ông tăng hành cước đến gần hỏi:

- Xin lỗi, thầy có thể nói cho biết ngôi chùa nổi tiếng Nam Tuyền ở chỗ nào không?

Nam Tuyền nói:

- Tôi đã trả ba đồng để mua cái lưỡi liềm này.

Ông tăng nói:

- Tôi không hỏi cái liềm, tôi chỉ muốn biết đường đến chùa thôi.

Nam Tuyền nói:

- Nó dùng được lắm, bởi vì nó rất bén.

(Chơn Không Gầm Thét)

236. TÂM BÌNH THƯỜNG

Nhân có một Luật sư đến hỏi:

- Phải tu đạo như thế nào?

Thiền sư đáp bằng câu nói của Lâm Tế:

- Khi đói thì ăn, khi mệt thì ngủ.

Luật sư liền nói:

- Đa số người ta đều làm vậy mà!

Thiền sư giải thích:

- Không, không, không phải vậy. Đa số khi ăn, người ta không chịu ăn mà còn nghĩ đến món này món nọ; khi ngủ, họ không chịu ngủ mà nghĩ đến điều này điều nọ.

(Chơn Không Gầm Thét)

237. CẬU BÉ BÍNH ĐINH ĐẾN XIN LỬA

Huyền Tắc hỏi Thiền sư Thanh Lâm:

- Thế nào là Phật?

Thanh Lâm đáp:

- Cậu bé Bính Đinh đến xin lửa.

Huyền Tắc nghe thế liền nghĩ: “Ha-ha! Ta được rồi! Cuối cùng ta đã hiểu.” Sau đó Huyền Tắc đến Thanh Lương làm giám viện cho Thiền sư Pháp Nhãn.

Một hôm Pháp Nhãn hỏi Huyền Tắc:

- Giám viện ở Thanh Lâm học được gì?

Huyền Tắc đáp:

- Một hôm con hỏi hòa thượng Thanh Lâm thế nào là Phật, hòa thượng đáp: “Cậu bé Bính Đinh đến xin lửa.” Con liền hiểu.

Pháp Nhãn nói:

- Lời ấy hay lắm. Giám viện hiểu thế nào?

Huyền Tắc đáp:

- Cậu bé Bính Đinh là thần lửa mà đi xin lửa. Giống như con là Phật mà đi cầu Phật.

Pháp Nhãn nói:

- Lâu nay tôi nghĩ ông hiểu, nhưng bây giờ tôi biết ông không hiểu.

Huyền Tắc kêu lên:

- Cái gì?! Như vậy mà không đúng ư! Sao lại sai được?!

Pháp Nhãn quay lưng bỏ đi. Huyền Tắc gọi:

- Khoan, khoan. . . Thế nào là Phật?

Pháp Nhãn nói:

- Cậu bé Bính Đinh đến xin lửa.

Ngay đó, Huyền Tắc liền ngộ.

(Chơn Không Gầm Thét)

238. HƯ KHÔNG CÓ ĐỂ MẮT NHÌN HOÀNG THƯỢNG CHĂNG?

Quốc sư Nam Dương Huệ Trung (677-775) quê ở Chư kỵ, Việt châu, nay là Triết Giang. Sư họ Nhiễm, là một trong năm đệ tử vĩ đại nhất của Lục Tổ Huệ Năng.

Sau khi nhận tâm ấn nơi Huệ Năng, sư đến núi Bạch Nhai ở Nam Dương và sống ở đó hơn bốn mươi năm, chưa từng bước chân xuống khỏi núi.

Vào năm 761, hoàng đế Túc Tông mời sư dến kinh đô để nhận chức Quốc sư.

Một hôm khi gặp hoàng đế, mặc dù nhà vua đã hỏi nhiều lần, nhưng thủy chung Huệ Trung vẫn không nhìn vua.

Vua có ý giận nói:

- Trẫm là Thiên tử, hoàng đế của Đại Đường, sao nhà sư dám không để mắt nhìn trẫm!

Sư hỏi:

- Hoàng thượng có thấy hư không trước mặt chăng?

Vua đáp:

- Có.

Sư hỏi tiếp:

- Vậy hư không có để mắt nhìn hoàng thượng chăng?

(Trí Tuệ Thiền Sư)

239. ÔNG BIẾT BẮN KHÔNG?

Thạch Củng Huệ Tạng vốn là một thợ săn, và loại người mà ông ta ít muốn gặp nhất là tăng nhân.

Một hôm khi đang rượt bắn một con nai, ông ta chạy tông vào Đại sư Mã Tổ.

Mã Tổ hỏi:

- Ông làm nghề gì?

Thạch Củng đáp:

- Tôi là thợ săn.

- Ông biết bắn không?

- Dĩ nhiên, tôi biết.

- Một mũi ông bắn được mấy con?

- Một mũi bắn một con.

- Ha, ha, ha . . . Vậy là ông không biết bắn rồi.

- Thầy biết bắn chăng?

- Dĩ nhiên, tôi biết.

- Một mũi thầy bắn được mấy con?

- Một mũi tôi bắn được cả bầy.

- Tất cả đều là vật sống, sao thầy nỡ bắn cả bầy?

- Ông đã biết mê lầm, sao không tự bắn đi?

- Nếu bảo tôi tự bắn, thật không biết bắt đầu tại chỗ nào.

- Ông đã nhiều kiếp mê lầm, từ nay hoàn toàn dứt sạch.

Nghe câu này, Thạch Củng buông bỏ cung tên, cạo tóc nhập chúng, và bái Mã Tổ làm thầy.

(Trí Tuệ Thiền Sư)

240. BAY MẤT SAO ĐƯỢC?

Một hôm, khi Đại sư Mã Tổ và đồ đệ là Bách Trượng cùng đi dạo, cả hai thấy một bầy vịt trời bay qua trên đầu họ.

Mã Tổ hỏi:

- Cái gì thế?

Bách Trượng đáp:

- Vịt trời.

Mã Tổ hỏi:

- Bay đi đâu vậy?

Bách Trượng đáp:

- Bay mất rồi.

Mã Tổ bèn quay lại nắm mũi Bách Trượng kéo mạnh. Bách Trượng đau quá kêu oái, oái. Mã Tổ nói:

- Chính là ở đây. Bay mất sao được?

(Trí Tuệ Thiền Sư)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3783)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3039)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2857)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2709)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3104)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2515)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4088)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3118)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3249)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]