Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Một người nghèo lạ

29/11/201115:17(Xem: 3985)
16. Một người nghèo lạ
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
TRUYỆN THƠ - TẬP 2
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương tái bản 2002

(16)

Một người nghèo lạ

Chàng Tu Lại rất là nghèo

Gia tài chỉ có Mẹ yêu đã già

Không tiền bạc, không cửa nhà

Lang thang nuôi Mẹ thật là hiếu thay!

*

Cứu người chết đuối một ngày

Người ta ơn nghĩa tặng ngay cho chàng

Búa bằng sắt tốt vô vàn,

Chàng bèn đốn gỗ, tìm hang làm nhà

Tránh mưa nắng, tiện vào ra

Hàng ngày chặt củi mang qua chợ làng

Đổi thành vật dụng, thức ăn

Mang về nuôi Mẹ, lòng chàng an vui.

Trong nhà hiếu đễ tuyệt vời

Ra ngoài giúp đỡ mọi người nhiệt tâm

Tiếng chàng nổi khắp xa gần

Oai danh tráng sĩ giúp dân trong miền.

*

Người ta đặt thật nhiều tiền

Thuê chàng săn bắn thú trên non ngàn

Chàng bèn từ chối, chẳng màng

Đã quy y Phật tránh đường sát sinh

Thú rừng vì thế vây quanh

Muôn chim đua hót an lành ngoài hang.

*

Tuần qua mưa gió phũ phàng

Hôm nay trời tạnh ánh quang tưng bừng

Chàng mừng vác búa đi rừng

Chặt cây, lượm củi trong lòng sướng vui,

Xa xa chợt thấy ba người

Ba cô thiếu nữ dạo chơi phía ngoài

Họ đi quên lại trâm cài

Nữ trang đắt giá bỏ rơi bên đường

Chàng cầm lên rồi vội vàng

Chạy theo trao lại các nàng của rơi.

*

Thế rồi một buổi sáng trời

Chàng đang mơ ngủ. Có người ghé thăm,

Đẹp như tiên, khẽ nói rằng

Chàng tìm của giúp cho nàng trước đây

Nay nàng muốn tạ ơn này

Xin cùng gá nghĩa vui vầy bên nhau,

Nhà nàng của cải sang giàu

Mẹ cha đã mất từ lâu lắm rồi

Chồng nàng cũng đã qua đời

Hai con còn nhỏ, nàng thời cô đơn,

Giọng nàng êm tựa suối ngàn

Như chim vui hót, như đàn êm ru

Nhưng chàng chợt tỉnh cơn mơ

Nghiêm trang khuyên nhủ: "Con thơ hãy còn

Nàng về đoan chính nuôi con

Sao cho trọn tấm lòng son thờ chồng,

Ta lo chữ hiếu cho xong

Tuổi già sức yếu Mẹ mong cậy nhờ!"

Nghe lời khuyên đẹp vô bờ

Nàng tiên biến khỏi giấc mơ của chàng.

*

Một hôm có kẻ biếu vàng

Nhờ chàng gian dối khai man đôi lời

Chàng bèn từ chối tức thời:

"Đã là Phật tử một đời chẳng tham

Điều gì phạm giới đừng làm

Không nên nói dối, ăn gian, tâm tà!"

*

Bao nhiêu sự việc vừa qua

Do tay sắp đặt của nhà Vua thôi

Vua A Dục muốn thử người

Nên sai cung nữ đến nơi dụ chàng.

Bạc không ham, sắc chẳng màng

Quy y giữ giới Đạo Vàng Thích Ca,

Tiếng người tráng sĩ bay xa

Gieo hương núi thẳm, nở hoa thị thành

Nhà Vua đố kỵ, gian manh

Sai đao phủ đến rừng xanh giết chàng,

Chàng điềm nhiên khẽ nói rằng:

"Tôi đâu có tiếc tấm thân giả này

Hủy giùm tôi, tốt lắm thay

Chỉ thương Mẹ yếu rồi ai phụng thờ!"

Ngạc nhiên đao phủ sững sờ

Hỏi người bình thản bên bờ tử sinh:

"Ông không giận Vua thật tình?"

Ôn tồn chàng đáp: "Vua mình đáng thương

Bao nhiêu nghiệp ác mãi vương

Cầu xin Đức Phật soi đường thiện tâm

Cho Vua và khắp muôn dân

Cùng nhau hồi hướng dưới chân Phật đài!"

Tâm hồn đao phủ rạng ngời

Ôm đao quay vội về nơi triều đình

Đầu đuôi sự việc tâu trình

Khiến Vua A Dục thật tình ăn năn.

*

Tuần sau Vua đến tận hang

Chiêu hiền, đãi sĩ mời chàng về cung

Chăm lo giúp nước việc chung

Nhưng chàng từ chối, dửng dưng, chẳng màng,

Nhà Vua lui tới mời chàng

Chàng quỳ thỉnh Mẹ lời vàng dạy con:

"Mẹ nghe khắp chốn nước non

Vua thời hà khắc đâu còn thương dân

Triều đình đầy những nịnh thần

Tham quan ô lại đa phần xấu xa

Oán hờn vang khắp mọi nhà

Luân thường đạo lý thật là đảo điên

Cho nên giặc giã khắp miền

Con ra giúp nước thuận duyên lúc này

Mang lời Phật dạy lâu nay

Hương thơm giáo lý gieo đầy khắp nơi

Lời vàng cảm hóa mọi người

Mong rằng đất nước hết thời khổ đau!"

*

Chàng Tu Lại khẽ cúi đầu

Nghe lời Mẹ dạy, trước sau tuân hành

Rời rừng núi, về thị thành

Mang tên "Quốc Bửu" Vua dành đặt cho

Hết lòng việc nước chăm lo

Khiến cho đời sống ấm no dân lành

Chàng đem Phật pháp tâm thành

Quân Vương cảm hóa, triều đình sửa sang

Khắp nơi chói lọi ánh vàng

Tràn đầy an lạc, reo vang thanh bình

Vua theo Phật pháp nhiệt tình

Giờ đây bỗng lại trở thành minh quân

Chỉ dùng đức độ trị dân

Trong ngoài cảm phục, xa gần ngợi ca.


(phỏng theo bản văn xuôi của Thể Quán)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3769)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3032)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2852)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2702)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3090)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2504)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4077)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3104)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3239)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]