Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

25. Con đường thăng hoa tâm linh

05/09/201103:08(Xem: 4132)
25. Con đường thăng hoa tâm linh

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
Huệ Trân 2008

Con đường thăng hoa tâm linh

Thượng Tọa Narada Mahathera, người từng bầy tỏ lòng qúy kính sâu sa đối với Đức Phật Cồ Đàm qua tác phẩm The Buddha đã nhận xét và dẫn chứng sự quan sát của nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng khắp thế giới để chứng minh rằng những phương thức thuyết giảng, hội chúng Phật tử và hình thành tăng đoàn tại Ấn Độ cách nay hơn 2500 năm đã trở thành những mô hình căn bản được áp dụng và thực thi tại các nghị trường ngày nay. Tinh túy của những mô hình đó phải khởi đi từ sự bình đẳng, không phân biệt giai cấp, nam nữ, giầu nghèo sang hèn và phải được tưới tẩm bằng tâm từ bi. Khi ta thương người như thương ta thì mọi hàng rào dị biệt tự động bị phá vỡ để không ai nhìn ai là kẻ thù mà kẻ thù, nếu có, chính là sự vô minh.

Tôi đã được chứng kiến phần nào, mô hình không biên giới đó qua Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa tại Làng Mai, Pháp Quốc. Đại Giới Đàn đó là biểu trưng sự tụ về của những nhánh sông, sẵn sàng cùng trôi ra biển lớn, góp phần làm hùng vĩ vạn hữu và phục vụ muôn loài. Hầu như mọi quốc tịch đều có người đại diện, được xướng danh lên nhận đèn trong lễ truyền đăng là lễ xác nhận các vị tân giáo thọ đã được hội đồng giáo thọ và bốn chúng duyệt xét qua nhiều năm tháng với hành trình tự chuyển hóa và giúp thế nhân chuyển hóa. Hành trình này chẳng phải một sớm một chiều mà thường từ tám đến mười năm với những thành quả minh chứng rõ ràng để xứng đáng với giá trị của cây đèn chánh pháp.

Thế giới như thu nhỏ lại trong thiền đường Nước Tĩnh - Xóm Thượng, thiền đường Hội Ngàn Sao - Xóm Hạ và thiền đường Trăng Rằm-Xóm Mới, nơi diễn ra lễ truyền đăng và thọ giới trong suốt Đại Giới Đàn. Thế giới đó hiện diện đủ mầu da, mầu tóc, đủ mọi ngôn ngữ, mọi tuổi tác, xuất gia và tại gia. Vậy mà, khi ngồi lại với nhau, tất cả trở thành một “Nhất tức thị đa. Đa thức thị nhất” Một là tất cả. Tất cả là một.

Trong số các vị tân giáo thọ được nhận đèn năm nay, vị trẻ nhất mà Thầy gọi một cách thân thương “Baby Nun”, là sư cô Chân Mẫn Nghiêm, có cơ duyên được gặp Thầy từ lúc năm tuổi, đã nhất định xin đi tu, nhưng phải đến năm mười hai tuổi mới được về Làng, chính thức tập sự xuất gia. Cô thường làm Thầy ngạc nhiên với những ý tưởng mới mẻ và dùng trí tuệ sung mãn của tâm hồn thanh cao, hướng thượng mà thực hiện những sáng kiến của mình không chút khó khăn. Chẳng hạn, sau khi đọc cuốn “Nói với tuổi hai mươi” Thầy viết khi Thầy bốn mươi tuổi, thì cô ngỏ ý sẽ viết cuốn “Nói với tuổi tám mươi” khi Thầy tám mươi tuổi.

Và cô đã thực hiện điều này. Cuốn sách ba trăm trang của “Baby Nun” Chân Mẫn Nghiêm không chỉ là món quà đặc biệt cô muốn dành riêng cho sinh nhật tám mươi của Thầy, mà đây còn là một biểu trưng tuyệt kỷ về tình thầy trò giữa thời đại nhân loại đang bị soi mòn bao giá trị tinh thần. Tuy Thầy chia xẻ là cô viết rất hay, dí dỏm và dễ thương nhưng cô chỉ muốn dành riêng cho Thầy nên ba trăm trang giấy vẫn chỉ là bản thảo duy nhất, đang được lưu giữ tại nội viện Phương Khê. Hy vọng có ngày sư cô đổi ý, phổ biến cho mọi người cùng thưởng thức.

Hôm nay, trong Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa, sư cô đã được trao đèn để chính thức là vị tân giáo thọ khi vừa hai mươi tuổi.

Sau khi nhận kệ kiến giải của sư cô, Thầy đã chia xẻ là khi sư cô còn rất bé, đang trong thời kỳ tập sự xuất gia, những buổi thiền hành, Thầy thường nắm tay sư cô dẫn chúng, như vẫn thường nắm tay các em bé trong các buổi thiền hành khắp nơi. Một lần, Thầy bỗng cảm nhận không phải Thầy chỉ nắm tay một cô bé mà là đang nắm tay rất nhiều cô bé cậu bé Việt Nam khác. Thầy cảm thấy như Thầy đang dẫn một đoàn em bé thiền hành và con đường thiền hành trải dài suốt ba miền đất nước.

Hôm nay, trao đèn chánh pháp cho sư cô, Thầy mong mỏi sư cô sẽ hội đủ duyên trở về quê hương. Chuyến trở về đó không phải chỉ là đi theo Thầy mà là về để tiếp xúc trực tiếp với các cô bé, cậu bé đang rất cần nhiều sự quan tâm, sự giúp đỡ về mọi mặt. Những người xuất gia trẻ ở hải ngoại phải trở thành những pháp-khí-tam-bảo để tiếp sức cho tuổi trẻ ở quê nhà trước giai đoạn biến chuyển quá nhanh về kỹ thuật và văn minh toàn cầu. Khi thế giới tiến mà ta không theo kịp, chẳng phải ta chỉ lùi mà còn có nghĩa là ta bị bỏ rơi bên lề đường văn minh nhân loại!

Từ vị trẻ nhất là sư cô người Việt Nam, tôi chú ý đến người lão niên, bẩy mươi mốt tuổi, từng là mục sư ở thánh đường Disciples of Christ Church tại Atlanta, Hoa Kỳ. Ông Charles Allen Lingo Jr là một mục sư nổi tiếng nghiêm túc, từng rao giảng thánh kinh nhiều thập niên qua. Ông có một người con gái mà ông rất yêu quý, chăm sóc rất kỹ lưỡng, nhất là phương diện tâm linh. Tháng giêng năm 1998, tăng đoàn Thầy hướng dẫn dừng nơi thị trấn Atlanta. Người con gái tình cờ được bạn rủ, đã muốn cha dẫn đi nghe “Ông thầy tu Việt Nam thuyết pháp”. Là người cởi mở, mục sư đã cùng con gái dự buổi nói chuyện của Thầy. Nào ngờ, hạt giống đạo Bụt đã gieo xuống ruộng tâm của cô gái, trổ cành, đơm lá, lớn mạnh vượt ngoài khả năng kiểm soát của người cha. Khi con gái ngỏ ý muốn xuất gia với Thầy để được nhập vào tăng đoàn thì người cha không ngạc nhiên nhưng rất sửng sốt và buồn bã. Đây là tâm trạng mâu thuẫn nhưng có thể hiểu được. Không ngạc nhiên, vì với kinh nghiệm là một người từng rao giảng lời răn dạy của một tôn giáo, chắc ông đã nhận thấy những biến chuyển tâm linh của con gái trước cánh cửa đang mở rộng về một Đạo Phật dấn thân, tự độ rồi độ tha. Nhưng ông sửng sốt và buồn bã vì sức mạnh mời gọi của giáo pháp phục vụ tha nhân đó sẽ mang đứa con yêu quý ra khỏi tầm tay ông. Mục sư Charles Lingo không thể làm gì hơn là khuyên con chớ vội vàng, ông sẽ cùng với cô tìm hiểu thêm và tham dự những buổi thuyết giảng của Thầy khi hoàn cảnh cho phép.

Sau những lần cùng con gái, lặn lội tìm bước chân Thầy để được nghe thuyết pháp, mục sư đã an lạc và hạnh phúc, tiến vào ngôi nhà Phật lúc nào không hay. Trong tám năm qua, ông đã được nhận vào Chúng Chủ Trì cư sỹ dòng Tiếp Hiện (dòng này có hai chúng là chúng cư sỹ Tiếp Hiện và chúng xuất gia Tiếp Hiện), trực thuộc Làng Mai. Ông đã tận tụy mở ra những trung tâm tu học để cùng tu và giúp đỡ những ai gặp chướng ngại, đau khổ về tâm linh. Cư sỹ Al Lingo đã cải gia vi tự, biến ngôi nhà khá lớn của tổ phụ để lại, làm “The Mindfulness Practice Center of Atlanta” là một trong những địa điểm tu học.

Điều rất cảm động là trong Đại Giới Đàn Phương Bối tại thiền đường Cánh Đại Bàng, tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc năm 2007, sư cô Chân Châu Nghiêm Kaira Lingo sau khi tu học gần mười năm tại Làng Mai, đã được nhận đèn Chánh Pháp; và ông Charles Allen Lingo Jr đã có mặt tại Việt Nam, làm thị giả mang đèn cho cô con gái yêu quý. (Mỗi vị tân giáo thọ, khi lên nhận đèn đều được chọn hai thị giả theo phụ giúp).

Năm nay, tại Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa, người cha đã hội đủ cơ duyên để được trao đèn chánh pháp, chính thức trở thành vị tân giáo thọ Làng Mai. Khi cư sỹ Charles Allen Lingo Jr được xướng danh thì người thị giả trịnh trọng cầm bài kệ kiến giải của ông chính là cô con gái ông rất mực thương yêu, và cũng đã là sư cô trong tăng đoàn từ nhiều năm qua.

Điều gì mầu nhiệm đã chuyển hóa hai cha con đến thế? Nếu ai có tự hỏi, chỉ cần nhiếp tâm đôi phút, tất sẽ có câu trả lời.

Giữa hai vị tân giáo thọ biểu trưng cho hai thế hệ này, tôi cũng muốn đề cập tới một vị trung niên. Đó là bà Cheri Maples, một phụ nữ Hoa Kỳ. Bà là người được gọi lên nhận ngọn đèn cuối cùng trong số hai mươi mốt ngọn được trao trong Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa.

Nhìn người phụ nữ dáng dấp thanh tú, nhu hòa, chắp tay búp sen, khoan thai cùng hai thị giả tiến lên bàn Tổ, khó ai có thể tưởng tượng được chức vụ ngoài đời mà bà đã đảm trách trong nhiều năm qua. Bà không chỉ là một cảnh sát trưởng thuần túy mà còn là vị huấn luyện trưởng có nhiệm vụ huấn luyện những cảnh sát trực thuộc đơn vị, trước khi họ được điều động giao phó cho công tác đặc biệt nào. Với chức vụ đó, tất nhiên bà luôn phải biểu hiện sự can trường, quyết liệt khi trực diện những tội phạm, hoặc ngay cả những trường hợp lỗi lầm của nhân viên dưới quyền, đa số là nam cảnh sát. Bà chia xẻ, sự lạnh lùng chỉ là bên ngoài, còn bên trong nội tâm, là phụ nữ, bà cũng có những yếu đuối, những khổ đau, những sợ hãi, nhưng vì chức vụ, bà luôn phải tự che dấu. Chính sự phải âm thầm che dấu này khiến những yếu đuối càng yếu đuối hơn, những khổ đau càng khổ đau hơn và những sợ hãi càng sợ hãi hơn! Nhưng bà không biết phải làm sao cho tới ngày ngẫu nhiên được gặp Thầy, do nhận lời rủ của một người bạn, cùng đến dự một ngày tu khi Thầy mở khóa tu ở Madison, Wisconsin nơi bà cư ngụ. Đó là năm 1991. Một ngày tu đó đã thay đổi phần đời còn lại của bà.

Khi nhận lời bạn, bà cảm thấy khá khôi hài vì một người cảnh sát trưởng luôn mang vũ khí bên mình, luôn đối diện với tội ác, với bạo động mà xuất hiện ở môi trường chỉ có tình thương, hiểu biết và tha thứ thì liệu bà có được đón nhận không? Nỗi băn khoăn đó lập tức xóa nhòa ngay buổi ban đầu, khi bà được nghe rằng Chư Bụt, Chư Bồ Tát cũng có những vị biểu tượng cho sự nghiêm khắc; nhưng các ngài cầm roi, cầm tích trượng không phải chỉ là quyết liệt trừng phạt kẻ phạm tội mà roi đó cầm để răn đe, để nhắc nhở, rồi tìm hiểu và thương xót, thuần hóa kẻ dữ rồi giúp kẻ được thuần hóa trở thành tốt đẹp mà hòa nhập vào xã hội lương thiện.

Khi được nghe và nhìn thấy viễn ảnh con đường từ bi thực tiễn đó, bà đã bật khóc. Nỗi sợ hãi âm thầm trước những kẻ bạo động nhẹ dần và tan biến khi bà được biết rằng mỗi con người đều có hạt giống tốt như nhau, nhưng do hoàn cảnh xã hội và mức độ vô minh khác nhau mà hạt giống đó bị che khuất nhiều hay ít. Những kẻ bị vô minh che lấp thiện tâm là những kẻ đáng thương, cần được giúp đỡ, không khác chi người bệnh, cần được chẩn bệnh và xức thuốc. Muốn cứu vớt hạng người đó, không phải chỉ có sự trừng phạt mà còn cần lòng từ bi, khoan dung độ lượng để tìm hiểu cỗi rễ đưa tới sự phạm tội. Có hiểu mới thương, có thương mới thực sự đưa được người từ nơi tối tăm ra ngoài ánh sáng.

Đối với bà Cheri Maples, câu chuyện Đức Thế Tôn dùng tình thương chuyển hóa kẻ sát nhân lừng danh, tên Angulimala, thật là câu chuyện tuyệt vời. Tình thương có sức mạnh vũ bão, vượt lên trên sức mạnh của tất cả mọi thứ vũ khí tối tân nhất trên đời.

Qua những khóa tu kế tiếp do Thầy hướng dẫn, bà đã chuyển hóa bản thân, từ một người thường giận dữ, khắt khe trở thành một vị chỉ huy hòa nhã, từ ái, đạt được sự tin tưởng, thương yêu của mọi nhân viên dưới quyền. Bà đã thử mang pháp môn chuyển hóa này chỉ dạy cho cấp dưới, đến nỗi, các cảnh sát viên trực thuộc, khi gặp nhau đều chào nhau bằng hình thức chắp tay búp sen và cúi đầu, chẳng kể cấp bậc cao thấp thế nào! (không biết vị tư lệnh tối cao của Hoa Kỳ có tưởng tượng được điều này không?)

Sau hơn hai mươi năm làm việc trong các đơn vị cảnh sát, nay bà Cheri Maples đã về hưu nhưng những thành quả tốt đẹp bà mang lại đã không cho bà được “về hưu” đúng nghĩa. Một phần công việc của bà hiện nay là kiểm tra những tù nhân sắp mãn hạn tù, tìm hiểu để an ủi và liên lạc các cơ quan, các hãng xưởng đã tin cậy nơi bà để những người sẽ mãn tù đó sẽ có công ăn việc làm. Ít nhất, khi một người nhận được sự cảm thông, sự giúp đỡ, sự thương yêu thì cơ duyên tái phạm tội sẽ giảm thiểu, nếu không muốn nói là không còn nữa! Một người, khi đã được dẫn dắt để tự mình nhìn thấy được những hạt giống tốt của mình đơm hoa kết trái thì có khi nào dại dột hủy diệt để lại rơi xuống hố thẳm!

Bà Cheri Maples không chỉ chuyển hóa lớp thuộc cấp trong nghành cảnh sát, đem lại kết quả thực tế là giảm thiểu rất nhiều trạng huống tội ác, bạo động, mà bà còn đang đem Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, qua hình thức tu tập của Làng Mai tới cộng đồng nơi bà cư ngụ. Bà hiện là chủ tịch một trung tâm tu học mang tên “Snow Flower Sangha” tại Madison, Wisconsin, Hoa Kỳ, nơi thường luân chuyển khoảng năm trăm thiền sinh tìm đến để cầu mong giải thoát những phiền não khổ đau và hướng thượng giúp đời như bà đã và đang thực hiện.

Nào ai biết những tội phạm, những tâm hồn bạo động, những kẻ khó thương từng được bà giúp chuyển hóa, nay chẳng những đang an lạc, vững chãi đi trên đường Bụt đi mà họ còn đang âm thầm gieo rắc tình thương, thăng hoa xã hội, như trước đây họ từng được người thấm nhuần lòng từ bi của Đạo Giác Ngộ, đưa ra khỏi hố thẳm?

Chính những móc xích thương yêu vô hình nhưng mầu nhiệm này mà trên con ĐƯỜNG XƯA, MÂY TRẮNG vẫn còn bay….

(Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa Jan 03/08 – Jan 09/08 - Làng Mai – Pháp Quốc)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5726)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4654)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4258)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37164)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5320)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8710)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4421)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13643)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 21007)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6606)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]