Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Tâm Nguyệt

05/09/201103:08(Xem: 3522)
24. Tâm Nguyệt

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
Huệ Trân 2008

Tâm Nguyệt

Tôi đang ở Xóm Mới, thuộc Làng Mai, Viện Cao Đẳng Phật Học, Pháp Quốc để dự khóa tu An Cư Kiết Đông. Theo truyền thống của Làng thì giữa khóa tu sẽ có Đại Giới Đàn để các giới tử đã thể hiện năng lượng, chuyên cần, tinh tấn đủ, sẽ được thọ nhận các giới như 5 giới, 14 giới, giới Thức Xoa Ma Na, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni. Đặc biệt sau lễ truyền những giới này là Lễ Truyền Đăng. Đây là hình thức trao đèn Chánh Pháp cho các vị tập sự giáo thọ, không chỉ trong giới xuất gia mà còn có cả các cư sỹ.

Đại Giới Đàn năm nay mang tên Thanh Lương Địa, tiếng Anh là Earth Refreshing. Đại Giới Đàn vừa hoàn mãn. Và tôi thực sự xúc động trong suốt những ngày diễn ra Lễ Truyền Đăng.

Chúng tôi đang có hai ngày làm biếng - tức là không có thời khóa gì – sau khi Đại Giới Đàn vừa kết thúc. Ngoài những giờ ăn của chúng, mọi người đều rút về phòng. Toàn xóm vắng lặng như ốc đảo chưa từng có bước chân người đặt tới. Tôi ra phòng ăn, pha một bình tra rồi cũng về phòng mình, kéo hết màn cửa để có thể nhìn thấy mênh mông đồng cỏ qua khung cửa kính.

Trời đang lất phất mưa. Phòng ấm. Hương trà thơm. Cây bút đã mở nắp. Tờ giấy trắng tinh nguyên vẫn im lặng đợi chờ. Vậy mà, từng ly trà cứ vơi, tờ giấy vẫn còn trắng. Quá nhiều hình ảnh đẹp, quá nhiều sự chia sẻ cảm động trong Lễ Truyền Đăng khiến tôi không biết phải bắt đầu từ đâu! Tôi như đứa bé được mẹ dắt vào tiệm bánh kẹo và bảo “Hôm nay con được tự do, muốn ăn gì thì ăn.” Bánh nào cũng thơm, kẹo nào cũng ngọt, nhiều quá! Chọn cái nào đây? Nếu đứa bé tham lam cứ đứng ngẩn ngơ mãi thì sẽ tới lúc nghe mẹ bảo: “Thôi, đã đến giờ đi về!” Tôi đang được tự do, sẽ không ai ra lệnh giờ về hay giờ đi, mà chính tôi, nếu tôi không biết chia sẻ những cảm xúc của mình bây giờ, có nghĩa là tôi không còn chia sẻ được nữa! Tôi sẽ như em bé tham lam, được đến tiệm bánh kẹo mà về tay không.

Bức tranh tĩnh mặc ngoài khung cửa vừa giao động. Một chú chim sẻ nhỏ từ đâu về đậu trên cành cây trụi lá. Trời vẫn đang mưa nhẹ, chắc chắn nó đã ướt sũng rồi! Ôi, con chim lẻ loi đáng thương! vừa khiến tôi liên tưởng đến một cô điệu nhỏ miền quê nghèo Quảng Trị. Cô chẳng hiểu vì sao mà từ thuở ấu thơ cô chỉ có một ước mơ duy nhất là được đi tu. Ngôi chùa làng cũng nghèo xơ xác như gia đình cô nhưng đến chùa là cô vui sướng. Thấy điều đó, người mẹ đành cho con làm điệu trong chùa. Chính thời gian này, lần đầu tiên cô được thấy một sư cô theo đoàn từ thiện về cứu trợ quê nghèo. Hình ảnh đẹp đẽ đầy nhân ái của Bồ Tát Quan Thế Âm qua hình bóng sư cô đã lập tức đánh động vào những ước mơ thầm kín. Tuổi thơ nghèo khó khiến cô bé nhỏ nhiều lần phải lén ăn cắp trái cây của hàng xóm, ăn cho đỡ đói. Nghèo đói nhưng vẫn không phút nào mơ ước được giàu có mà chỉ mơ được đi tu. Cô chờ đợi cho đến năm 12 tuổi mới được mẹ cho phép rời làng, xuất gia ở một ngôi chùa xa nhà. Cô điệu nhỏ lạy mẹ ra đi với gia tài là 2 bộ quần áo! Nơi chùa mới, cô phải làm việc quần quật để có được nửa ngày tu, nửa ngày đi học. Vì quá nghèo khó, quá vất vả, ba năm liền hai mẹ con bặt tin nhau. Khi cô sắp bị đuổi học vì không có tiền đóng học phí, cô lén sư phụ, xin quá giang xe đò, tính về làng thăm mẹ và xin tiền học. Dọc đường, chiếc xe gặp tai nạn, lật úp, hành khách đều người chết, kẻ bị thương. Riêng cô, đang ngủ gà gật, choàng tỉnh dậy thì nghe tiếng la khóc, máu me kinh hoàng mà cô không hề hấn gì, dù là một vết trầy nhỏ. Ai cũng nhìn cô sửng sốt. Cô quá thơ ngây, chỉ nghĩ rằng chắc chư Phật che chở để mình được đi tu.

Mấy năm sau, cơ duyên đã đến làm thay đổi nếp của cô điệu nhỏ. Một phái đoàn từ thiện quốc tế sang Việt Nam đã tình cờ ghé vào ngôi chùa nghèo. Trong phái đoàn có cặp vợ chồng người Pháp vừa nhìn thấy cô điệu là như đã thấy cô từ tiền kiếp. Họ đã rơi lệ khi nhìn cô gánh nước, bổ củi, nấu cơm, bao công việc nặng nhọc oằn trên đôi vai trẻ thơ mà nụ cười của cô thì luôn nở trên khuôn mặt rạng rỡ. Trái tim họ đã mở ra một cánh cửa tuyệt vời là nhận bảo trợ cô tiếp tục ăn học ở Việt Nam, đến năm cô 18 tuổi thì bảo lãnh cô sang Châu Âu du học. Chính thời gian 4 năm du học này mà cô biết đến Làng Mai.

Cô đã tìm về được ngôi nhà đích thực của mình.

Cha mẹ nuôi của cô cũng hết lòng yểm trợ con đường cô đã chọn dù thâm tâm họ vẫn muốn cô tiếp tục đi học, có bằng cấp ngoài đời, bù đắp cho cô những thiếu thốn cơ cực tuổi thơ. Nhưng câu chuyện cô bé lọ lem này không kết thúc như trong cổ tích. Từ đói khổ bỗng nhiên được giàu có sung sướng, cô cũng không chọn ngôi Công chúa, mà vẫn son sắt với ước mơ đầu đời là được đi tu, được làm một sư cô để có an lạc thực sự cho mình và giúp người khác an lạc. Chính thời gian tu học pháp môn Làng Mai, Sư Cô đã được dẫn dắt từng bước để biết quay nhìn nội tâm mình mới có thể nương Tứ Diệu Đế, nhận diện nỗi khổ đau, tìm ra gốc rễ sâu xa của khổ đau mà giải thoát. Cũng với sự chỉ dạy của Sư Ông về Hiểu và Thương, Sư Cô đã thực tập cùng đại chúng để biết lắng nghe mà Hiểu, Hiểu rồi mới Thương và Thương rồi mới chấp nhận. Sư Cô cảm thấy tràn đầy hạnh phúc khi đạt được điều này và Sư Cô đã nghĩ ngay tới đại gia đình của mình ở Việt Nam.Gia đình đó, từ nhiều năm đã không cùng tiếng cười mà chỉ chung tiếng khóc vì những ngộ nhận, vì những bế tắc cảm thông. Cha không hiểu cái khổ của mẹ. Mẹ chẳng biết cái khó của cha. Anh chị em thiếu lòng tin cậy nhau nên lúc nào cũng có mầm nghi kỵ. Sư cô cũng đã từng sống tuyệt vọng trong bầu không khí đó, nhưng nay, tiếp xúc được với pháp môn Hiểu và Thương, sư cô cảm thấy quá dễ dàng để giúp gia đình chuyển hóa khổ đau thành hạnh phúc.

Sư Cô đã trở về quê nhà hai lần, chỉ để lắng nghe và hàn gắn. Sư Cô lắng nghe cha để giúp cha hiểu mẹ, lắng nghe mẹ để giúp mẹ thương cha, lắng nghe anh chị em để giúp khai thông những bế tắc. Việc làm đó, Sư Cô cho là đơn giản nhưng thật ra Sư Cô đã là sứ giả Như Lai khi mang lại hạnh phúc cho từng người mà Sư Cô yêu thương. Sư Ông và tăng thân đã theo dõi từng bước Sư Cô đi, đã nhận rõ việc Sư Cô làm, đã chứng minh tấm lòng trước sau như một với lý tưởng tải đạo độ mình rồi độ người nên sau bảy năm tu học, hôm nay, trong lễ truyền đăng, trước hàng giáo phẩm cao cấp khắp nơi về chứng minh, trước các bạn đồng tu, trước đại chúng, Sư Cô được Sư Ông Làng Mai, tức Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh, đời thứ 42 tông Lâm Tế và đời thứ 8 phái Liễu Quán nâng cao ngọn đèn chánh pháp bằng hai tay trao truyền cho Sư Cô Chân Cát Nghiêm với kỳ vọng Sư Cô sẽ dùng sự vững chãi, tự tin, chuyên cần và tinh tấn của mình trên hành trình tu học như một pháp khí của Tam Bảo để giúp giới trẻ nhận diện được giá trị đích thực của đời sống tâm linh, như bản thân cô đã nhận được.

Khi sư cô Chân Cát Nghiêm ngồi trên pháp tòa của vị Tân Giáo Thọ để ngỏ lời với đại chúng, sư cô không biết rằng những lời chia sẻ mộc mạc, chân tình của sư cô đã làm biết bao người rơi lệ. Riêng tôi, nước mắt đã rơi lã chã khi cô vừa được xướng danh gọi lên và còn đang cùng 2 thị giả quỳ trước Sư Ông, chờ dấu hiệu để trình kệ kiến giải. Nước mắt tôi rơi khi sư cô chưa mở lời, thì tất nhiên chưa phải vì sư cô, mà chính vì lời nói rất nhẹ nhàng của Sư Ông, dường như chỉ để nói riêng với sư cô trước khi chính thức truyền đăng. Sư Ông nói: “May quá! Mặt hết sưng rồi!” Câu nói chẳng dính líu gì đến buổi lễ trọng đại này nên trong đại chúng, có ai nghe hoặc không nghe cũng chẳng hiểu rõ và chẳng quan tâm. Vậy mà khiến tôi “mưa rơi” vì xúc động trước tấm lòng của người cha đối với các con mình. Tôi ở cùng xóm với sư cô nên biết là mấy ngày trước, sư cô bị nổi lên một cái mụn khá to, sưng đỏ bên mép trái. Sư cô lo lắng, bôi đủ các thứ thuốc nhưng ít hy vọng nó sẽ xẹp xuống trước ngày nhận truyền đăng. Vậy mà Sư Ông cũng biết, dù Sư Ông ở Sơn Cốc hay tận Xóm Thượng, Xóm Hạ. Nhất là thời gian này Sư Ông rất bận rộn tiếp đón chư Tôn Đức, soạn kệ truyền đăng, trăm công ngàn việc mà một đứa con lo buồn vì cái mụn cũng khiến Sư Ông quan tâm. Tình thương này có dễ thể tìm thấy ngoài đời không?

Khi người đời phát âm chữ “THƯƠNG” với nhau là người ta chỉ nói bằng ngôn từ hay bằng sự thương yêu của Trái-Tim-Bụt?

Ngoài khung cửa, chú chim sẻ nhỏ đã rời cành lúc nào, chỉ còn hàng cây trụi lá đứng im lặng trong mưa. Bình trà đã cạn. Xin hãy đợi tôi châm thêm nước, bỏ thêm trà và lại mời bạn tiếp tục bước vào những cánh cửa mở rộng đang tỏa ra làn ánh sáng kỳ diệu từ những ngọn đèn vừa được trao truyền.

Trời còn mưa hay đã tạnh cũng chẳng thể làm đầy thêm hay vơi bớt những gì chúng ta cảm nhận được, bởi vì Đèn Chánh Pháp đã-là, đang-là và sẽ-là như thế. Là gì? Là Tâm Nguyệt. Là vầng trăng chưa hề lặn.

Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa
03 – 09 tháng Giêng 2008
Làng Mai – Pháp Quốc
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5684)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4617)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4227)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37077)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5300)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8671)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4395)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13203)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 20939)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6564)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]