Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ẩn Sĩ Thời Mạt Pháp

01/09/201109:06(Xem: 2813)
Ẩn Sĩ Thời Mạt Pháp
ẨN SĨ THỜI MẠT PHÁP
Truyện ngắn: Trần Hạ Tháp

Lữ khách một mình trên lối mòn vào thung lũng An-nhiên. Núi rừng trùng

điệp miền Bản-ngã-sơn huyền bí, nhàn nhạt ánh mặt trởi trên bóng lá thâm u. Mơ hồ đâu đó phảng phất khói lam ai đốt lau làm rẫy dưới sườn non.

Mồ hôi nhỏ ròng ròng, hắn vẫn không một phút dừng chân. Chiếc gậy trúc đi đường và tay nải choàng ngang lưng đơn giản. Cứ thế, cô độc giữa hoang vu cho đến khi lữ khách bật tiếng reo đầy mệt mỏi:

-Ồ, thật may mắn. Đây rồi.

Thấp thoáng bóng thảo lư im lìm dưới tàn cây cổ thụ. Tiếng chó sủa nổi lên giữa rừng hoang đem đến niềm vui tìm lại bóng con người. Bao nhiêu nhọc nhằn vơi đi nhanh chóng. Thực ra đấy chỉ là căn lều tranh trơ trọi bên khúc uốn dòng suối triền miên đang róc rách. Mấy giò dã lan treo đu đưa, phảng phất khí vị của đại ngàn thanh khiết.

Quần áo tả tơi, lữ khách bước tới cổng ngõ là hai thân cây tự nhiên, không cánh cửa. Hắn lên tiếng sau khi điều hoà hơi thở:

-Kính chào ẩn sĩ. Xin ban cho kẻ phàm phu một đôi lời về lẽ sống.

Ngoài tiếng chó sủa chẳng thấy ai, lữ khách bước vào nhìn xuyên ô cửa sổ. Đồ gia dụng quá đơn sơ. Trên liếp phên trịnh trọng đôi câu thơ viết thảo lên giấy thô, vàng vọt đã lâu ngày: "Mạt pháp ẩn cư ly ác nghiệp. Thiện căn tuỳ ngộ diễn thiền tâm"(*). Dường như bóng ẩn sĩ đang trầm tư trong một góc khuất gió. Mừng rỡ, lữ khách vái dài và lập lại thỉnh nguyện đầy tha thiết:

-Kính chào ẩn sĩ. Xin ban cho kẻ phàm phu một đôi lời về lẽ sống.

Bóng người không ngước lên khi có kẻ vào đến trước mặt mình, giọng nói bình thản như chưa hề kinh ngạc:

-Là ai? Từ đâu đến. Hãy nói lý do ngươi khổ cực đến đây?

-Kính chào ẩn sĩ. Dù phải đến từ chân trời gốc biển, nhưng kẻ vô danh vẫn miệt mài tìm chân lý. Ngoài ra, không ý đồ nào nữa cả.

-Chân lý ở khắp mọi nơi, mọi thời... Chân lý phơi bày rõ ràng từng ngày một sao lại phải đi tìm nơi núi thẳm rừng sâu?

Lữ khách thở dài, giọng chùng xuống như chất ngất tâm tư không nói đủ nên lời:

-Thưa, chính thế. Chính mọi nơi và mọi thời đều nhân danh chân lý. Và vì chân lý, kẻ phàm phu đã mất đi tuổi thanh xuân cùng sức sống... Ôi, vẫn có thứ chân lý co giãn tuỳ lúc, tuỳ nơi và - nực cười - tuỳ ở mỗi ai đang thuyết

giảng. Tự nó mâu thuẩn như những trò diễn khôi hài nhất thế gian.

-Là giả lý, hoặc chỉ là chân-lý-tắc-kè. Mưu lược, thứ đồ dùng để qua mặt và chế ngự đối thủ ở đấu trường danh lợi. Đấy không thể là chân lý vì chân lý không bị động để tuỳ nghi thay đổi. Ta hiểu. Ngươi từng tôn thờ nó cho đến lúc nhận ra rằng, chính ngươi cũng bị thứ chân-lý-tắc-kè ấy qua mặt và chế ngự.

-Vâng, thưa ẩn sĩ. Thật cay đắng.

-Thiếu trí huệ để nhìn xa thấy rộng nhưng với nhiệt tâm luôn sôi sục cùng một phần hoàn cảnh riêng tư mà nên nỗi... Phải chăng? Trước khi đổ vỡ tâm tư, người như ngươi hẳn đầy rẫy cơ hội để trở thành hiệp sĩ. Và, tất nhiên với sự giúp đỡ của chân-lý-tắc-kè vừa nói... Sự giúp đỡ mà bây giờ ngươi nhìn ra đầy cay đắng. Không lầm chứ? Ngươi cũng từng là hiệp sĩ...

-Hỡi ôi..! Hiệp sĩ. Vâng, như một kẻ đã cạn vốn thời gian, nhiệt tâm và nghị lực, kẻ phàm phu chỉ còn biết thương xót lấy đời mình... Một cuộc đời mà trước đây, tưởng như đã vô cùng hân hạnh so nhiều đồng loại khác. Chưa nói đếnám ảnh đầy nghiệt ngã của một thời trai trẻ khi đã định tâm nhìn lại biên giới giữa điều lành và tội lỗi?

-Thế ngươi còn khổ công tìm chân lý ở nơi đâu? Đơn giản, chân lý rút gọn là sự-thật-cuối-cùng. Còn lẽ sống ư? Là cách hành-xử-với-sự-thật-cuối-cùng ra sao trong tự mỗi con người. Ngươi có quyền công nhận hoặc phủ nhận sự thật ấy, mặc lòng... Tuy thế, điều đáng nói nơi đây là chắc gì ngươi sống đủ, sống thực, sống mãi với điều ngươi lựa chọn? Ta muốn nói sự "sống giả" ấy mà. Nó khác lẽ sống thực ra sao..? Không phải ta mà là ngươi. Chính ngươi nên tự trả lời câu hỏi lấy. Từng là hiệp sĩ, ngươi thiếu gì lòng can đảm. Nhìn thẳng vào sự thật. Đấy, hãy hiệp-sĩ-với-nội-tâm mình xem thử...

Khách rũ rượi, lặng im trên gốc cây khô làm ghế. Đó đây chỉ còn vang vọng lời chim ca, tiếng suối chảy thầm thì... Ẩn sĩ rời chỗ ngồi, đem đặt trước lữ khách ít lương khô và bầu nước. Thảo lư lại chìm trong tịch mịch mãi cho đến khi lữ khách giật nẩy mình, đứng dậy. Hắn thở phào, mạnh dạn ngẩng đầu lên và tỏ rõ tri ân:

-Xin nhận nơi đây ít lễ mọn tâm thành. Chắc rằng ẩn sĩ sẽ có thêm chút điều kiện để giúp những người đến sau, đồng cảnh ngộ không khác kẻ phàm phu... Ngài còn phải lo chuyện thường nhật sinh tồn. Hãy tha thứ lời đường đột nhưng đầy cảm xúc tri ân. Quả nhiên, kẻ phàm phu như vừa ra khỏi cơn mộng huyễn hoang đường. Ôi, kinh hoàng cho nhân thế bể dâu...

Hắn lần lưng trịnh trọng lấy ra vài thứ trang sức quý giá, đặt tất cả trước mặt người đối diện. Ẩn sĩ bình thản xua tay:

-Với những người đồng cảnh ngộ, đến sau ngươi... Tại sao không là ngươi mà là ta? Phải nói lại những lời ngươi vừa nghe ban nãy. Còn thường nhật sinh tồn nơi thảo lư bé nhỏ nầy ư? Chính ẩn sĩ từ sáng sớm đã có mặt trên rẫy nương cho đến khi bóng chiều gác núi. Là lúc ngài quay về với thảo lư để nghỉ ngơi và chân truyền thêm bửu pháp... Lương thực ấy đủ cho ngài và cả ta qua những ngày đạm bạc. Còn bổn phận của ta ư? Thật ra, để thay mặt ẩn sĩ nói những gì cần nói.

Lữ khách bàng hoàng kinh ngạc:

-Vẫn chưa gặp ẩn sĩ..? Ồ, ngài ở đây chỉ là người giúp việc.

-Không hẳn thế. "Bất tác, bất thực"(*). Ta giúp ẩn sĩ có thì giờ để chăm lo nương rẫy như một cách tạ ơn đầy ý nghĩa. Thảo lư, do thế không vì sự vắng mặt thường xuyên của ẩn sĩ mà bỏ dở ý nguyện của ngài với lữ khách ngang qua... Ai cũng có việc phải làm. Và, làm ra làm, ngươi hiểu chứ? Tập quên thói "ngồi mát ăn bát vàng", uống mãi mồ hôi kẻ khác như uống thứ nước mưa từ trời rơi xuống.Tốt nhất, đừng nâng chén cơm mỗi ngày y như nâng lời nguyền rủa tự thân lên trước mặt. Nếu không, hãy thôi nói chân lý, đạo đức, công bằng và nhân danh cứu thế...

-Vâng, ân nghĩa và đạo đức ẩn sĩ thật cao dày. Nhưng riêng ngài, người giúp việc ẩn sĩ, từ bao giờ? Đã trở thành môn đồ đắc ý ở nơi đây.

-Không, ta chưa đủ nội lực để trọn đời theo ẩn sĩ. Sự sống và thời gian nơi đây giúp lấy lại quân bình trong thế cuộc đảo điên. Niềm vui của ta là những cuộc đàm đạo mỗi đêm bên bếp lửa hồng cùng ẩn sĩ. Ta cũng từng là khách ghé qua như ngươi, y hệt. Còn ngươi. Ngươi là luân-hồi-tâm-tư, phiên-bản-nỗi-lòng-chính-ta thời gian trước. Vâng, ta lữ khách ở lại. Tất nhiên vẫnsẽ trở về mái nhà xưa, khi một lữ khách nào tình nguyện thay vào chỗ của ta. Cứ thế...

-Để tiếp tục giúp ẩn sĩ như một cách tạ ơn đầy ý nghĩa..?

Câu hỏi không có tiếng trả lời. Và, chỉ cần hai nụ cười yên lặng giữa thảo lư gió lộng ấy, chừng như quá đủ để hai người xa lạ thiết thân nhau.

Một buổi sáng mấy hôm sau... Khi sương rừng còn giăng khắp đó đây. Thảo lư lung linh bóng ba người ngồi vòng quanh bếp lửa. Họ cung kính mời nhau mấy bát chè vối nóng. Lữ khách hôm trước, nay thành người ở lại. Hắn bịn rịn nói lời chia tay với một kẻ sắp lên đường trở lại mái nhà xưa.

(thành nội Huế - tháng 02/2011)
Trần Hạ Tháp

(*)Mạt pháp ẩn cư ly ác nghiệp/Thiện căn tuỳ ngộ diễn thiền tâm:Thời mạt pháp ở ẩn để xa rời ác nghiMối thiện căn tuỳ gặp mà phô diễn thiền tâm.

(*)"Bất tác, bất thực":Không làm, không ăn - Lời thiền sư Bách Trượng

(Chim Việt Cành Nam)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5730)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4663)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4266)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37177)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5321)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8713)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4425)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13667)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 21013)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6620)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]