Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

25. Con đường thăng hoa tâm linh

05/09/201103:08(Xem: 3183)
25. Con đường thăng hoa tâm linh

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
Huệ Trân 2008

Con đường thăng hoa tâm linh

Thượng Tọa Narada Mahathera, người từng bầy tỏ lòng qúy kính sâu sa đối với Đức Phật Cồ Đàm qua tác phẩm The Buddha đã nhận xét và dẫn chứng sự quan sát của nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng khắp thế giới để chứng minh rằng những phương thức thuyết giảng, hội chúng Phật tử và hình thành tăng đoàn tại Ấn Độ cách nay hơn 2500 năm đã trở thành những mô hình căn bản được áp dụng và thực thi tại các nghị trường ngày nay. Tinh túy của những mô hình đó phải khởi đi từ sự bình đẳng, không phân biệt giai cấp, nam nữ, giầu nghèo sang hèn và phải được tưới tẩm bằng tâm từ bi. Khi ta thương người như thương ta thì mọi hàng rào dị biệt tự động bị phá vỡ để không ai nhìn ai là kẻ thù mà kẻ thù, nếu có, chính là sự vô minh.

Tôi đã được chứng kiến phần nào, mô hình không biên giới đó qua Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa tại Làng Mai, Pháp Quốc. Đại Giới Đàn đó là biểu trưng sự tụ về của những nhánh sông, sẵn sàng cùng trôi ra biển lớn, góp phần làm hùng vĩ vạn hữu và phục vụ muôn loài. Hầu như mọi quốc tịch đều có người đại diện, được xướng danh lên nhận đèn trong lễ truyền đăng là lễ xác nhận các vị tân giáo thọ đã được hội đồng giáo thọ và bốn chúng duyệt xét qua nhiều năm tháng với hành trình tự chuyển hóa và giúp thế nhân chuyển hóa. Hành trình này chẳng phải một sớm một chiều mà thường từ tám đến mười năm với những thành quả minh chứng rõ ràng để xứng đáng với giá trị của cây đèn chánh pháp.

Thế giới như thu nhỏ lại trong thiền đường Nước Tĩnh - Xóm Thượng, thiền đường Hội Ngàn Sao - Xóm Hạ và thiền đường Trăng Rằm-Xóm Mới, nơi diễn ra lễ truyền đăng và thọ giới trong suốt Đại Giới Đàn. Thế giới đó hiện diện đủ mầu da, mầu tóc, đủ mọi ngôn ngữ, mọi tuổi tác, xuất gia và tại gia. Vậy mà, khi ngồi lại với nhau, tất cả trở thành một “Nhất tức thị đa. Đa thức thị nhất” Một là tất cả. Tất cả là một.

Trong số các vị tân giáo thọ được nhận đèn năm nay, vị trẻ nhất mà Thầy gọi một cách thân thương “Baby Nun”, là sư cô Chân Mẫn Nghiêm, có cơ duyên được gặp Thầy từ lúc năm tuổi, đã nhất định xin đi tu, nhưng phải đến năm mười hai tuổi mới được về Làng, chính thức tập sự xuất gia. Cô thường làm Thầy ngạc nhiên với những ý tưởng mới mẻ và dùng trí tuệ sung mãn của tâm hồn thanh cao, hướng thượng mà thực hiện những sáng kiến của mình không chút khó khăn. Chẳng hạn, sau khi đọc cuốn “Nói với tuổi hai mươi” Thầy viết khi Thầy bốn mươi tuổi, thì cô ngỏ ý sẽ viết cuốn “Nói với tuổi tám mươi” khi Thầy tám mươi tuổi.

Và cô đã thực hiện điều này. Cuốn sách ba trăm trang của “Baby Nun” Chân Mẫn Nghiêm không chỉ là món quà đặc biệt cô muốn dành riêng cho sinh nhật tám mươi của Thầy, mà đây còn là một biểu trưng tuyệt kỷ về tình thầy trò giữa thời đại nhân loại đang bị soi mòn bao giá trị tinh thần. Tuy Thầy chia xẻ là cô viết rất hay, dí dỏm và dễ thương nhưng cô chỉ muốn dành riêng cho Thầy nên ba trăm trang giấy vẫn chỉ là bản thảo duy nhất, đang được lưu giữ tại nội viện Phương Khê. Hy vọng có ngày sư cô đổi ý, phổ biến cho mọi người cùng thưởng thức.

Hôm nay, trong Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa, sư cô đã được trao đèn để chính thức là vị tân giáo thọ khi vừa hai mươi tuổi.

Sau khi nhận kệ kiến giải của sư cô, Thầy đã chia xẻ là khi sư cô còn rất bé, đang trong thời kỳ tập sự xuất gia, những buổi thiền hành, Thầy thường nắm tay sư cô dẫn chúng, như vẫn thường nắm tay các em bé trong các buổi thiền hành khắp nơi. Một lần, Thầy bỗng cảm nhận không phải Thầy chỉ nắm tay một cô bé mà là đang nắm tay rất nhiều cô bé cậu bé Việt Nam khác. Thầy cảm thấy như Thầy đang dẫn một đoàn em bé thiền hành và con đường thiền hành trải dài suốt ba miền đất nước.

Hôm nay, trao đèn chánh pháp cho sư cô, Thầy mong mỏi sư cô sẽ hội đủ duyên trở về quê hương. Chuyến trở về đó không phải chỉ là đi theo Thầy mà là về để tiếp xúc trực tiếp với các cô bé, cậu bé đang rất cần nhiều sự quan tâm, sự giúp đỡ về mọi mặt. Những người xuất gia trẻ ở hải ngoại phải trở thành những pháp-khí-tam-bảo để tiếp sức cho tuổi trẻ ở quê nhà trước giai đoạn biến chuyển quá nhanh về kỹ thuật và văn minh toàn cầu. Khi thế giới tiến mà ta không theo kịp, chẳng phải ta chỉ lùi mà còn có nghĩa là ta bị bỏ rơi bên lề đường văn minh nhân loại!

Từ vị trẻ nhất là sư cô người Việt Nam, tôi chú ý đến người lão niên, bẩy mươi mốt tuổi, từng là mục sư ở thánh đường Disciples of Christ Church tại Atlanta, Hoa Kỳ. Ông Charles Allen Lingo Jr là một mục sư nổi tiếng nghiêm túc, từng rao giảng thánh kinh nhiều thập niên qua. Ông có một người con gái mà ông rất yêu quý, chăm sóc rất kỹ lưỡng, nhất là phương diện tâm linh. Tháng giêng năm 1998, tăng đoàn Thầy hướng dẫn dừng nơi thị trấn Atlanta. Người con gái tình cờ được bạn rủ, đã muốn cha dẫn đi nghe “Ông thầy tu Việt Nam thuyết pháp”. Là người cởi mở, mục sư đã cùng con gái dự buổi nói chuyện của Thầy. Nào ngờ, hạt giống đạo Bụt đã gieo xuống ruộng tâm của cô gái, trổ cành, đơm lá, lớn mạnh vượt ngoài khả năng kiểm soát của người cha. Khi con gái ngỏ ý muốn xuất gia với Thầy để được nhập vào tăng đoàn thì người cha không ngạc nhiên nhưng rất sửng sốt và buồn bã. Đây là tâm trạng mâu thuẫn nhưng có thể hiểu được. Không ngạc nhiên, vì với kinh nghiệm là một người từng rao giảng lời răn dạy của một tôn giáo, chắc ông đã nhận thấy những biến chuyển tâm linh của con gái trước cánh cửa đang mở rộng về một Đạo Phật dấn thân, tự độ rồi độ tha. Nhưng ông sửng sốt và buồn bã vì sức mạnh mời gọi của giáo pháp phục vụ tha nhân đó sẽ mang đứa con yêu quý ra khỏi tầm tay ông. Mục sư Charles Lingo không thể làm gì hơn là khuyên con chớ vội vàng, ông sẽ cùng với cô tìm hiểu thêm và tham dự những buổi thuyết giảng của Thầy khi hoàn cảnh cho phép.

Sau những lần cùng con gái, lặn lội tìm bước chân Thầy để được nghe thuyết pháp, mục sư đã an lạc và hạnh phúc, tiến vào ngôi nhà Phật lúc nào không hay. Trong tám năm qua, ông đã được nhận vào Chúng Chủ Trì cư sỹ dòng Tiếp Hiện (dòng này có hai chúng là chúng cư sỹ Tiếp Hiện và chúng xuất gia Tiếp Hiện), trực thuộc Làng Mai. Ông đã tận tụy mở ra những trung tâm tu học để cùng tu và giúp đỡ những ai gặp chướng ngại, đau khổ về tâm linh. Cư sỹ Al Lingo đã cải gia vi tự, biến ngôi nhà khá lớn của tổ phụ để lại, làm “The Mindfulness Practice Center of Atlanta” là một trong những địa điểm tu học.

Điều rất cảm động là trong Đại Giới Đàn Phương Bối tại thiền đường Cánh Đại Bàng, tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc năm 2007, sư cô Chân Châu Nghiêm Kaira Lingo sau khi tu học gần mười năm tại Làng Mai, đã được nhận đèn Chánh Pháp; và ông Charles Allen Lingo Jr đã có mặt tại Việt Nam, làm thị giả mang đèn cho cô con gái yêu quý. (Mỗi vị tân giáo thọ, khi lên nhận đèn đều được chọn hai thị giả theo phụ giúp).

Năm nay, tại Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa, người cha đã hội đủ cơ duyên để được trao đèn chánh pháp, chính thức trở thành vị tân giáo thọ Làng Mai. Khi cư sỹ Charles Allen Lingo Jr được xướng danh thì người thị giả trịnh trọng cầm bài kệ kiến giải của ông chính là cô con gái ông rất mực thương yêu, và cũng đã là sư cô trong tăng đoàn từ nhiều năm qua.

Điều gì mầu nhiệm đã chuyển hóa hai cha con đến thế? Nếu ai có tự hỏi, chỉ cần nhiếp tâm đôi phút, tất sẽ có câu trả lời.

Giữa hai vị tân giáo thọ biểu trưng cho hai thế hệ này, tôi cũng muốn đề cập tới một vị trung niên. Đó là bà Cheri Maples, một phụ nữ Hoa Kỳ. Bà là người được gọi lên nhận ngọn đèn cuối cùng trong số hai mươi mốt ngọn được trao trong Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa.

Nhìn người phụ nữ dáng dấp thanh tú, nhu hòa, chắp tay búp sen, khoan thai cùng hai thị giả tiến lên bàn Tổ, khó ai có thể tưởng tượng được chức vụ ngoài đời mà bà đã đảm trách trong nhiều năm qua. Bà không chỉ là một cảnh sát trưởng thuần túy mà còn là vị huấn luyện trưởng có nhiệm vụ huấn luyện những cảnh sát trực thuộc đơn vị, trước khi họ được điều động giao phó cho công tác đặc biệt nào. Với chức vụ đó, tất nhiên bà luôn phải biểu hiện sự can trường, quyết liệt khi trực diện những tội phạm, hoặc ngay cả những trường hợp lỗi lầm của nhân viên dưới quyền, đa số là nam cảnh sát. Bà chia xẻ, sự lạnh lùng chỉ là bên ngoài, còn bên trong nội tâm, là phụ nữ, bà cũng có những yếu đuối, những khổ đau, những sợ hãi, nhưng vì chức vụ, bà luôn phải tự che dấu. Chính sự phải âm thầm che dấu này khiến những yếu đuối càng yếu đuối hơn, những khổ đau càng khổ đau hơn và những sợ hãi càng sợ hãi hơn! Nhưng bà không biết phải làm sao cho tới ngày ngẫu nhiên được gặp Thầy, do nhận lời rủ của một người bạn, cùng đến dự một ngày tu khi Thầy mở khóa tu ở Madison, Wisconsin nơi bà cư ngụ. Đó là năm 1991. Một ngày tu đó đã thay đổi phần đời còn lại của bà.

Khi nhận lời bạn, bà cảm thấy khá khôi hài vì một người cảnh sát trưởng luôn mang vũ khí bên mình, luôn đối diện với tội ác, với bạo động mà xuất hiện ở môi trường chỉ có tình thương, hiểu biết và tha thứ thì liệu bà có được đón nhận không? Nỗi băn khoăn đó lập tức xóa nhòa ngay buổi ban đầu, khi bà được nghe rằng Chư Bụt, Chư Bồ Tát cũng có những vị biểu tượng cho sự nghiêm khắc; nhưng các ngài cầm roi, cầm tích trượng không phải chỉ là quyết liệt trừng phạt kẻ phạm tội mà roi đó cầm để răn đe, để nhắc nhở, rồi tìm hiểu và thương xót, thuần hóa kẻ dữ rồi giúp kẻ được thuần hóa trở thành tốt đẹp mà hòa nhập vào xã hội lương thiện.

Khi được nghe và nhìn thấy viễn ảnh con đường từ bi thực tiễn đó, bà đã bật khóc. Nỗi sợ hãi âm thầm trước những kẻ bạo động nhẹ dần và tan biến khi bà được biết rằng mỗi con người đều có hạt giống tốt như nhau, nhưng do hoàn cảnh xã hội và mức độ vô minh khác nhau mà hạt giống đó bị che khuất nhiều hay ít. Những kẻ bị vô minh che lấp thiện tâm là những kẻ đáng thương, cần được giúp đỡ, không khác chi người bệnh, cần được chẩn bệnh và xức thuốc. Muốn cứu vớt hạng người đó, không phải chỉ có sự trừng phạt mà còn cần lòng từ bi, khoan dung độ lượng để tìm hiểu cỗi rễ đưa tới sự phạm tội. Có hiểu mới thương, có thương mới thực sự đưa được người từ nơi tối tăm ra ngoài ánh sáng.

Đối với bà Cheri Maples, câu chuyện Đức Thế Tôn dùng tình thương chuyển hóa kẻ sát nhân lừng danh, tên Angulimala, thật là câu chuyện tuyệt vời. Tình thương có sức mạnh vũ bão, vượt lên trên sức mạnh của tất cả mọi thứ vũ khí tối tân nhất trên đời.

Qua những khóa tu kế tiếp do Thầy hướng dẫn, bà đã chuyển hóa bản thân, từ một người thường giận dữ, khắt khe trở thành một vị chỉ huy hòa nhã, từ ái, đạt được sự tin tưởng, thương yêu của mọi nhân viên dưới quyền. Bà đã thử mang pháp môn chuyển hóa này chỉ dạy cho cấp dưới, đến nỗi, các cảnh sát viên trực thuộc, khi gặp nhau đều chào nhau bằng hình thức chắp tay búp sen và cúi đầu, chẳng kể cấp bậc cao thấp thế nào! (không biết vị tư lệnh tối cao của Hoa Kỳ có tưởng tượng được điều này không?)

Sau hơn hai mươi năm làm việc trong các đơn vị cảnh sát, nay bà Cheri Maples đã về hưu nhưng những thành quả tốt đẹp bà mang lại đã không cho bà được “về hưu” đúng nghĩa. Một phần công việc của bà hiện nay là kiểm tra những tù nhân sắp mãn hạn tù, tìm hiểu để an ủi và liên lạc các cơ quan, các hãng xưởng đã tin cậy nơi bà để những người sẽ mãn tù đó sẽ có công ăn việc làm. Ít nhất, khi một người nhận được sự cảm thông, sự giúp đỡ, sự thương yêu thì cơ duyên tái phạm tội sẽ giảm thiểu, nếu không muốn nói là không còn nữa! Một người, khi đã được dẫn dắt để tự mình nhìn thấy được những hạt giống tốt của mình đơm hoa kết trái thì có khi nào dại dột hủy diệt để lại rơi xuống hố thẳm!

Bà Cheri Maples không chỉ chuyển hóa lớp thuộc cấp trong nghành cảnh sát, đem lại kết quả thực tế là giảm thiểu rất nhiều trạng huống tội ác, bạo động, mà bà còn đang đem Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, qua hình thức tu tập của Làng Mai tới cộng đồng nơi bà cư ngụ. Bà hiện là chủ tịch một trung tâm tu học mang tên “Snow Flower Sangha” tại Madison, Wisconsin, Hoa Kỳ, nơi thường luân chuyển khoảng năm trăm thiền sinh tìm đến để cầu mong giải thoát những phiền não khổ đau và hướng thượng giúp đời như bà đã và đang thực hiện.

Nào ai biết những tội phạm, những tâm hồn bạo động, những kẻ khó thương từng được bà giúp chuyển hóa, nay chẳng những đang an lạc, vững chãi đi trên đường Bụt đi mà họ còn đang âm thầm gieo rắc tình thương, thăng hoa xã hội, như trước đây họ từng được người thấm nhuần lòng từ bi của Đạo Giác Ngộ, đưa ra khỏi hố thẳm?

Chính những móc xích thương yêu vô hình nhưng mầu nhiệm này mà trên con ĐƯỜNG XƯA, MÂY TRẮNG vẫn còn bay….

(Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa Jan 03/08 – Jan 09/08 - Làng Mai – Pháp Quốc)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/09/2010(Xem: 50590)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
02/09/2010(Xem: 5540)
Sơ lược về Thiền Sư Nguyễn Minh Không, Ông tên là Nguyễn Chí Thành sinh ngày 14/8 năm Bính Thìn (1076) tại Điềm Xá, Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Thiếu thời ngài chuyên làm nghề chài lưới của ông cha. Năm 29 tuổi ngài xuất gia đầu Phật. Ngài đã cùng Thiền sư Giác Hải và Thiền sư Từ Đạo Hạnh làm bạn thân sang Thiên Trúc học đạo với thầy Samôn được phép: Lục Trí Thần.
02/09/2010(Xem: 2507)
Tha phương sinh sống xứ người, tuy thâm tâm lúc nào cũng hướng về quê hương mến yêu, thế nhưng phải chờ đợi đến hơn hai mươi năm trời, sau bao ngày khắc khoải suy tư Thanh mới đột ngột quyết định về nước nghỉ hè hai tháng. Chàng về Saigon viếng thăm họ hàng vài ngày, rồi lang thang du ngoạn khắp các vùng biển từ Sầm Sơn đến Vũng Tàu, sau cùng quay lại Nha Trang, chiều chiều thơ thẩn đi dài dài trên bãi, mắt lơ láo nhìn biển khơi xa xăm với nỗi buồn vời vợi.
02/09/2010(Xem: 2413)
“Khác hơn thường lệ, đôi bạn thân Hiển và Phước, đối ẩm trong lặng lẽ, chẳng ai chịu mở lời. Hiển nâng chung trà hớp từng ngụm, rồi dường như đang bâng khuâng thả hồn theo những chiếc lá phong đỏ thẩm từng chiếc, từng chiếc rụt rè buông rời cành theo làn gió chiều mơn man. Còn Phước thì cầm chung trà, đi tới lui đăm chiêu suy nghĩ, mấy lần định lên tiếng mà cố đè nén chưa chịu hở môi.
02/09/2010(Xem: 2315)
Nghĩa háo hức theo mẹ về Việt Nam thăm viếng quê hương. Sau mấy ngày vui nhộn làm sống lại những kỹ niệm ấu thơ tại Thủ Đức với bà con họ nội xa gần, chàng theo mẹ về quê ngoại, tạm trú tại nhà cậu Út ở thành phố Phan Rang, Ninh Thuận. Vì thuở nhỏ chàng không có cơ hội liên lạc với họ ngoại, nên dù được cậu tiếp đón rình rang, nhưng chàng muốn thân thiết với hai đứa em cô cậu thật khó.
01/09/2010(Xem: 4367)
Dù dòng thời gian đã xoá nhòa những hình ảnh quý gíá xa xưa, dù dấu chân của các Ngài đã rêu phong phủ kín. Nhưng những dấu chân ấy đã đi vào lịch sử nhân gian, dù tiếng nói các Ngài đã hòa vào không gian tĩnh lặng. Nhưng đâu đây vẫn còn vang vọng pháp âm của các Ngài, làm chấn động tâm tư huyết mạch của bao người con Phật. Trong quyển “Những Vị Phật ở Miền Tây Nam Việt Nam” này. Chúng tôi sưu tầm, nghiên cứu và ghi chép trung thực theo lời thuật của các vị Trưởng Lão uy tín; hay các vị trí thức trung hậu; hoặc trích trong các tài liệu giá tri được mọi người tin tưởng.
28/08/2010(Xem: 52012)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 3506)
Tết Mậu Thân 1968, một cái Tết mà Việt Cộng tràn về quá bất ngờ, tôi không thể tin rằng đó là sự thật. Mồng Một Tết vẫn ăn Tết sắm sửa bình thường. Nhà tôi ở lầu 2 trường Đồng Khánh vì tôi làm Giám Học tại trường này, bên hông là Tòa Hành Chánh và Lao xá Thừa Thiên - nơi giam giữ nhiều tù binh Việt Cộng. Cả ngày vẫn tấp nập bà con tới lui thắm viếng, chiều lại còn có con của các nhân viên trong trường đến thăm chuyện trò hàn huyên vui như ngày hội. Tối đến cả nhà còn bàn nhau nên đi ngủ sớm để ngày mai xuống phi trường đón gia đình người anh chồng về Huế ăn Tết.
28/08/2010(Xem: 51451)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567