Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

21. Bà Lão Dị Kỳ

31/08/201113:33(Xem: 6382)
21. Bà Lão Dị Kỳ

Đường Vào Nội Tâm
Thích Nữ Trí Hải

21. BÀ LÃO DỊ KỲ

"Tâm phàm phu xoay vần theo ngũ dục, xao động không thể nắm bắt. Chỉ những người nào điều phục được tâm mìmh mới được yên vui".Câu thứ 35 ấy trong kinh Pháp cú có duyên khởi như sau:

Thuở Phật còn tại thế, trong xứ Kiều tất la có một khu làng nằm dưới chân núi gọi là Mã đề thôn. Tại đấy có một bà lão sống một mình với một gia tài phong phú. Bà được mệnh danh là Mã Lão Mẫu. Vào một ngày an cư, sau khi đức Phật chỉ dạy cho chúng tỳ kheo pháp quán 32 uế vật trong thân, có 60 vị đi đến Mã Đề thôn để thực hành thiền quán. Bà lão cho xây cất một tu viện cho 60 vị ấy cư trú và cúng dường đầy đủ về y phục, thực phẩm dược phẩm, mền chiếu trong suốt mùa an cư. Những tỳ kheo ấy muốn tinh tiến tu hành nên cùng đặt ra một quy luật như sau: không được hai vị tỳ kheo cùng đứng hay ngồi tại một chỗ đồng thời với nhau. Đại chúng chỉ nhóm họp hai lần trong ngày là sáng sớm trước khi vào rừng tọa thiền và chiều tối sau khi ở rừng về, để bái yết vị thượng tọa chúng trưởng. Tuy nhiên, nếu có tỳ kheo nào bị bệnh, thì hãy đánh lên một hồi kiểng. Khi nghe tiếng kiểng tất cả sẽ nhóm lại để cùng lo cho bệnh nhân. Sau khi thỏa thuận quy luật trên chúng tỳ kheo đi vào rừng mỗi ngày.

Một hôm bà lão đem thực phẩm tới chùa cúng dường, không thấy ai cả, bà bèn hỏi những người ở chung quanh, làm cách nào để gặp chúng tỳ kheo. Có người biết quy luật nói trên, bày cho bà lão đánh kiểng. Tức thì từ trong rừng các vị tỳ kheo lần lượt trở về. Bà lão lấy làm quái lạ thấy mỗi người đi từ một hướng, không ai đi chung với ai, nên nghĩ thầm: "Có lẽ các Đại Đức có chuyện cãi vã nhau chăng?" Khi họ đến gần bà hỏi ngay câu ấy, và được trả lời: "Không đâu lão mẫu ". Bà lão hỏi: - Nếu quý vị không xích mích thì tại sao khi tới đây quý vị đi chung, mà bây giờ mỗi người đi mỗi ngã như vậy? - Lão mẫu, chúng tôi mỗi người ngồi một gốc cây để thực hành phép thiền quán của Thế tôn chỉ dạy. - Thưa Đại Đức, phép quán gì thế? - Lão mẫu, chúng tôi quán 32 uế vật trong thân. - Thưa, phép quán ấy chỉ dành cho các vị tỳ kheo mà thôi, hay cư sĩ như lão cũng tập được?

- Ồ, lão mẫu, phép quán ấy ai muốn học cũng được cả, không ai cấm. - Vậy thì xin chư Đại Đức dạy cho lão với. - Được, lão mẫu hãy nghe cho kỹ. Rồi một vị tỳ kheo đằm trách dạy cho bà lão phép quán 32 uế vật trong thân, để đi đến nhận thức rõ ràng về hoại diệt, chết chóc luôn ẩn tàng trong thân mình. Bà lão thuộc lòng ngay phép quán và tinh cần tu tập đến nỗi bà đắc quả vị thứ ba (Bất lai) trong bốn Thánh quả, trước cả các vị tỳ kheo.

Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, bà quán thấy tất cả những vị tỳ kheo chưa ai đắc gì cả, và sau khi quán sát kỹ, bà thấy họ đều có khả năng chứng quả A La Hán. Khi nhận thấy điều này, bà lão quyết định hỗ trịï cho chúng tỳ kheo đầy đủ về mọi mặt, để họ có thể mau chứng quả. Vị nào thích hợp với món ăn nào, thức uống nào, bà cung cấp đúng như nhu cầu của họ. Bà thận trọng không cúng dường những thực phẩm có vị chua cho những người nào yếu bao tử. Vị nào ưa ngủ gục trong lúc tọa thiền, bà lão cúng cà phê. Vị nào yếu phổi, bà cúng thêm mền và áo lạnh. Trong tâm vị nào tưởng đến món ăn gì, bà lão biết ngay và đáp ứng.

Nhờ sự chăm sóc chu đáo ấy, sau khi giải hạ, 60 vị tỳ kheo trở về bên Phật với sắc diện hồng hào tươi nhuấn, và tiến bộ khá hơn trên đường tu. Phật âu yếm nhìn đàn con trở về và bảo: - Này các tỳ kheo, chắc hẳn các con được an vui, sức khỏe, thực phẩm đầy đủ trong mùa an cư? - Dạ thưa vâng, Bạch Thế Tôn. Chúng con được an vui, sức khỏe, và khỏi lo gì đến chuyện ăn uống. Bởi vì có một bà lão ở Mã Đề thôn biết được ý nghĩ chúng con, đến nỗi chúng con vừa ước món gì, là có ngay món ấy. Các vị tỳ kheo thi nhau kể chuyện về bà lão dị kỳ cho Phật và chúng Tăng ở Xá vệ nghe.

Một vị tỳ kheo nghe xong, quyết đi đến Mã Đề thôn để thiền định, và xin Phật: - Bạch Thế tôn, cho con tới đó. Phật bằng lòng, sau khi ra đề tài cho vị ấy thiền quán. Vị tỳ kheo lên đường đi dến Mã Đề thôn. Khi đến ngôi chùa của bà lão bỏ vắng, vị ấy nghĩ: "Mình nghe bà lão dường như biết được tâm kẻ khác. Vậy nay mình vừa mới tới, quá mệt vì đường xa không thể quét dọn chùa. Mong sao bà lão cho người tới quét dùm". Bà lão đang ở nhà riêng, biết được ý ấy, bèn cho người tới quét chùa. Vị tỳ kheo lại ao ước trong lòng "ước chi mình có được một ly cô ca mát lạnh mà giải khát". Bà lão cho người đem ly cô ca lạnh cho vị tỳ kheo. Hôm sau, vừa thức dậy, vị t? kheo ước: "Mong sao bà lão dọn cho mình một bữa điểm tâm nhiều bị và thức ăn ngon lành". Bà lão cho người đem bữa điểm tâm đúng như vị ấy muốn. Vị tỳ kheo suy nghĩ: "Bà lão đã cho ta mọi thứ ta ao ước. Bấy giờ ta muốn gặp mặt bà. Mong sao bà hãy đích thân đến, mang cho ta thật nhiều thức ăn loại cứng loại mềm. Bà lão liền đi đến chùa cùng với thức ăn cúng dường đúng sở thích của vị tỳ kheo. Vị tỳ kheo nói: - Lão mẫu, có phải bà là Mã lão mẫu không? - Thưa vâng. - Bà có tha tâm thông à? - Tại sao Đại Đức hỏi vậy? - Vì bà đã cho tôi mọi thứ tôi nghĩ đến. - Nhiều vị tỳ kheo cũng có tha tâm thông. -Tôi không nói các tỳ kheo, tôi muốn hỏi bà. Bà lão tránh né trả lời bằng cách nói: - Thưa Đại Đức đâu cần phải có tha tâm thông mới có thể cúng dường các thứ ấy?

Khi ấy vị tỳ kheo bắt đầu hoằng sợ, nghĩ: " Khốn thay, kẻ chưa chứng đắc như ta thì có khi nghĩ tốt nhưng cũng lắm khi nghĩ bấy. Nếu lỡ có một ý nghĩ bậy bạkhởi lên, bà lão sẽ tóm cổ ta như tóm bắt một kẻ trộm, và liếng hành lý ta ra khỏi chùa. Ta sẽ bị khốn đốn với bà lão. Chi bằng ta hãy thoát khỏi chốn này. Nghị vậy xong, vị tỳ kheo nói với bà lão: - Này lão bà, tôi muốn rời khỏi nơi đây. - Đại Đức đi đâu? - Trở về Thế tôn. - Đại Đức ở lại ít lâu đã. - Không tôi không thể ở lại. Tôi phải đi ngay.

Thế là vị đại đức của chúng ta thu xếp hành lý thoát ra khỏi ngôi chùa bà lão, vừa đi vừa thở phào nhẹ nhõm cả người, như vừa thoát khỏi tử nạn. Khi trở về vườn Cấp cô độc, đến đãnh lễ Phật, Phật hỏi: - Sao, sao con không ở Mã Đề thôn nữa à? - Bạch Thế tôn, bà lão biết hết mọi ý nghĩ trong tâm con. Và con nghĩ rằng, kẻ chưa chứng đạo như con thì có khi nghĩ tốt, nhưng cũng nhiều khi nghĩ bấy. Lỡ mà con có ý nghĩ xấu, bà lão ấy sẽ túm lấy đầu con, và sẽ làm con khốn đốn. - Con đi, chính nơi ấy con cần nên cư trú. - Bạch Thế tôn, con không thể nào ở chỗ ấy được nữa. - Này tỳ kheo, con có thể giữ một điều này thôi không? - Điều gì, Bạch Thế tôn, con chưa hiểu.

- Chỉ giữ cái tâm của con, không làm việc gì khác.

Sau khi nghe lời Phật dạy, vị tỳ kheo trở lại làng bà lão. Với thiên nhãn bà lão biết được vị tỳ kheo sắp đắc quả nên càng chu đáo cúng dường để hỗ trịï cho ông mau chóng đạt mục đích. Do đó, chỉ trong vài ngày vị ấy đắc quả A La Hán. Sau khi đắc quả, vị ấy suy nghĩ: "Bà ấy quả thực đã giúp đỡ ta rất nhiều. Nhờ bà lão ấy mà ta thoát ly được vòng sống chết. Không biết chỉ trong kiếp này bà ấy giúp ta, hay nhiều kiếp trước cũng vậy?" Vị La hán nhập định quán sát các tiền kiếp thì biết rằng trong 99 kiếp trước, bà lão đã làm vợ mình và đã ngoại tình với những người đàn ông khác, và làm cho mình phải thật điên bát đảo. Bà lão lại còn âm mưu giết mạng sống của mình. Khi biết được điều ấy, vị La hán nghĩ: "Ồ tín nữ này đã phạm biết bao tội ác!" Bà lão ngồi trong ngôi nhà riêng, biết được tâm niệm của vị A La Hán, và nghĩ: "Vị ấy đang nghĩ về tội lỗi 99 kiếp trước của ta. Nhưng trong vòng luân hồi đã qua, có lần nào ta giúp vị ấy không? Bà lão nhập định thấy ở kiếp thứ 100 về trước, bà đã cứu mạng sống của vị A La Hán khi vị ấy là chồng bà. Do đó, bà dùng thần giao cách cảm bảo vị La hán: - Hãy quán sát tiếp, đi sâu hơn nữa vào quá khứ. Bằng thiên nhị thông, vị La hán nghe được hiệu lệnh trên, và tiếp tục quán sát đến kiếp thứ 100 về trước của mình, thì thấy quả nhiên bà lão cứu mạng mình. Vị La hán nghĩ: "Tín nữ này quả đã giúp ta rất nhiều". Sau khi nghĩ như vậy, ngay tại chỗ vị ấy nhập Niết bàn vô dư y.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 51922)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
19/08/2010(Xem: 7082)
Tại Keelung, Đài Loan có một cửa hàng với cái tên là “Ngộ Duyên Hào”. Ông chủ Lâm vốn là một người rất tử tế, xung quanh khu vực ông sống có rất nhiều những cư dân đánh cá hay kiếm sống quanh đó.
04/08/2010(Xem: 3508)
Tác-giả Thiện Xuân Malkhanova là một con người thật đặc-biệt. Còn nhớ năm 2000 khi chị Trương Anh Thụy và tôi đi sang họp Đại-hội Văn-bút Thế-giới ở Mạc-tư-khoa, chúng tôi đã để ý đến chuyện đi đường, gặp con sâu róm ở dưới đất, chị đã ân cần lấy một cái lá nâng nó lên rồi đặt nó lên một cành cây gần đó. Một con người từ-bi đến với cả cỏ cây, đất đá! Chị bảo đó là điều chị đã học được từ đạo Phật.
04/08/2010(Xem: 3151)
Không biết từ lúc nào, mà ngôi tịnh thất vô danh thấp thoáng dưới tàn cây huỳnh đàn rậm lá trên đỉnh núi Ông cheo leo mây mù đong đưa bao phủ quanh năm, đã được dân quê dưới chân núi ưu ái gọi là am Mây Ngàn thay thế cho cái tên “chòi đạo Ân” mà họ hùa nhau ám chỉ túp lều lá của sư Từ Ân ngày trước. Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh... lặng lẽ lên tận đỉnh, khai phá được một khoảnh đất nhỏ làm rẫy. Sư bắt đầu trồng các loại rau đậu, khoai, bắp, cà dưa... để sớm gặt hái hoa lợi,
20/07/2010(Xem: 8791)
Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, tất cả mọi hành động bằng thân, lời và ý đều xuất phát từ hai tiêu chuẩn đó nhằm đem lại lợi lạc cho mình và tha nhân. Đây là những đức tính rất cơ bản để phát triển về Giới-Định-Tuệ mà một người muốn thăng tiến về mặt tâm linh thì cần phải quan tâm và thực hiện một cách triệt để.
17/07/2010(Xem: 3907)
Đêm qua con nghe bài pháp “Vượt qua oan gia trái chủ”của thầy Thích Tâm Đại, cảm thấy bàng hoàng, sửng sốt, mồ hôi ướt lạnh. Hóa ra, trong quá khứ, con đã tạo vô lượng tội, gieo vô lượng oán thù, oan gia trái chủ.
25/06/2010(Xem: 4288)
Vì không biết sự vận hành nội tại nên hầu hết mọi người trên thế gian không ai nhận ra chính mình và cũng không đồng ý với chính mình. Có người nương vào thể chất như thân thể cao lớn, mạnh khỏe, sắc diện đẹp đẻ, sáng sủa thù thắng …và cho đó là ta. Có vị lấy tri thức như bằng cấp học vị là mình như tiến sĩ, bác sĩ hay kỹ sư v.v. Có vị lấy danh vọng chức tước như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng v.v.làm ta.
25/06/2010(Xem: 7470)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
02/06/2010(Xem: 2769)
Đó là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot (chú thích người dịch: 926 km/giờ). Lúc đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20. Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một
03/04/2010(Xem: 2978)
Đạo vốn vô ngôn; do ngôn mà hiển đạo, thế nên có mạn lục, có bảo huấn, có bút ngữ, có võ khố. Nay đây, có Hòa thượng Văn Thủ, tự Nhất Ty (1607 – 1648) người nước Nhật Bản, lúc đầu ở ẩn nơi Tây Cương thuộc đất Lạc Tây, về sau Ngài về núi Đan mai danh ẩn tích. Nhưng các hàng xuất gia khắp chốn hải hồ tìm đến bên Ngài kết am tranh tu học số đông không kể xiết. Rốt cuộc, danh Ngài thấu đến cửu trùng, vua thỉnh Ngài trụ trì hai chùa Pháp Thường và Linh Nguyên, ban hiệu là Định Huệ Minh Quang Phật ĐảnhQuốc Sư. Những khi nhàn rỗi, Ngài xem lại gương xưa góp nhặt những di ngôn, vãng hạnh của Phật Tổ và thêm vào đó lời phẩm bình biên tập lại thành bộ Truy Môn Bảo Tạng Tập (trong bản dịch nầy tạm lấy nhan đề là Kho Báu Nhà Thiền). Bộ sách nầy thật là cây đuốc huệ trong đường tăm tối, là thuốc hay cho người bệnh, chẳng những lợi cho người đương thời mà cũng là tiếp độ kẻ hậu côn, thật không có gì hơn vậy. Than ôi! Vào niên hiệu Bảo Vĩnh vì ảnh hưởng thời cuộc nên đâu có khắc bản và muốn lưu hàn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567