Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Vì Hiếu Quên Thù

29/08/201105:03(Xem: 3861)
08. Vì Hiếu Quên Thù

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòathượng Thích Ðức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế, California, 1998

Vì Hiếu Quên Thù

Một hôm trên pháp tòađang thuyết giảng về lý Nhân Quả, khi đề cập đến kiếp quá khứ, đức Phật nói vớiđại chúng rằng: Thuở đời quá khứ vô lượng kiếp có một nhà vua rất mực nhân từ,lấy điều nhân nghĩa hiền đức trị dân, nhờ vậy mà khắp nơi thanh bình lạcnghiệp, dân chúng trong nước mến phục đức vua, nên thường gọi vua làHiền-Vương. Lúc bấy giờ có vua nước lân bang vô cùng tham lam độc ác, bóc lộtdân lành, hành hạ trăm họ, tóm thâu của quý trong thiên hạ dồn vào kho tàng nhàvua. Vì vậy, đâu đâu trong nước của nhà vua ác độc kia cũng nghe thấy tiếng tathán oán hận. Nhân dân gọi vua đó là Ác-Vương.

Vua lân bang tham ácthấy nước của vị vua Hiền-Ðức ngày một thanh bình giàu mạnh, dân chúng sốnghạnh phúc ấm no, mới nghĩ bụng rằng, từ lâu nghe nói vị vua Hiền-Ðức nầy chưatừng sát sanh giết hại mạng sống của ai. Nếu nay ta đem quân đánh chiếm thìchắc dễ dàng chiến thắng. Nghĩ như vậy rồi, Ác-Vương liền hội họp triều thần,trình bày kế hoạch xuất quân tấn công nước của vua Hiền-Ðức. Quần thần văn võbá quan của Ác-Vương đều tán đồng ca tụng Ác-Vương là bậc vua anh hùng tài trí,dũng lược có tài cái thế an bang.

Nghe quân của Ác-Vươngtấn công xâm lăng nước mình, vua Hiền-Ðức còn đang suy nghĩ tấn thối lưỡng nan,thì các đại thần tướng sĩ hợp nhau lại tâu vua rằng: "Tâu Bệ-hạ! Xin bệ hạlập tức ra lệnh xuất binh dẹp trừ quân giặc xâm lăng. Hiện nay trong triềukhông thiếu gì mưu sĩ tướng tài quân giỏi. Xin Bệ-hạ phải nghĩ đến sự an nguycủa quốc gia xã tắc và sự sanh tồn của muôn dân mà lập tức hạ chiếu chỉ cấp tốcxuất quân để diệt trừ giặc".

Vua Hiền-Ðức nghĩrằng: "Nếu ta xuất quân thắng địch, thì sẽ gây ra quân ta và quân giặccảnh đầu rơi máu đổ, tạo điều đau khổ cho vợ con họ biết chừng nào. Còn nếu takhông xuất quân, thì dân tình sẽ tắm máu đào trong cảnh binh đao khói lửa, gâynên tang tóc khóc than ngút ngàn, bởi quân giặc hoành hành. Cho dù thắng haybại cũng chỉ vì ngôi vị đế vương của ta. Ta không thể nào nhẫn tâm làm việc nhưthế nầy".

Biết được ý nghĩ củavua Hiền-Ðức, nên đã bao lần quần thần hội họp triều kiến khẩn thiết lạy xinnhà vua hãy cấp tốc ra lệnh xuất quân phản công để diệt trừ quân giặc xâm lăng.Nhưng nhà vua vẫn thái độ trầm buồn yên lặng. Quần thần tướng sĩ đều cho nhưvậy là điều sỉ nhục quốc thể, khinh thường quốc dân, nên họ tự động cùng nhauđồng tâm quyết chí tự điều khiển binh mã ra trận chống giặc. Riêng vua Hiền-Ðứcbàn cùng thái tử rằng: "Ta không thể chứng kiến cảnh xương rơi máu đổ, chỉvì ngôi vị của cha con ta. Vậy cha con ta nên rời khỏi hoàng thành nầy. Mặc chokẻ giặc muốn chiếm nước chiếm ngôi, miễn bá tánh trăm họ tránh khỏi chết chóckhổ sở là cha an lòng rồi!"

Thế rồi, vua Hiền-Ðứcvà thái tử cùng nhau lén ra khỏi hoàng thành, lẩn tránh lên núi cao rừng thẳmẩn cư. Vài hôm sau quân giặc tấn công chiếm thành, tiến thẳng vào cung điện nhàvua lục soát, nhưng không thấy vua Hiền-Ðức đâu cả. Quân giặc cả giận truyềnlệnh: "Ai tìm bắt được hoặc chỉ chỗ ẩn cư của vua Hiền-Ðức thì sẽ đượctrọng thưởng trăm ngàn lượng vàng và chức quan lớn". Lệnh nầy chẳng baolâu truyền khắp cả nước.

Sau khi rời khỏi hoàngcung đi ẩn vào chốn thâm sơn cùng cốc, vua Hiền-Ðức ngày đêm tĩnh tọa suy tư sựđời: "Thế gian vô thường mộng huyễn, phú quý danh vọng phù du, quốc giahưng vong an nguy trong tấc bóng, mạng sống trong hơi thở. Chúng sanh vì sắctình danh vọng lợi lộc quyền uy, mà đời đời phải trôi lăn lặn hụp trong biểnkhổ luân hồi". Tư duy việc đời, rồi nghĩ đến thân phận bọt bèo, nên nhàvua suốt ngày sống trong chánh niệm thiền quán. Còn thái tử thì ngày ngày vàorừng tìm hoa trái để dâng cho vua cha độ nhựt. Vua và thái tử đã bắt đầu quenvới cuộc sống thanh đạm êm đềm, vui với cảnh thiên nhiên "cái thân ngoạivật là tiên trong đời".

Cuộc sống thanh tịnhbình thản trong chốn rừng già tịch mịch đã làm cho hai tâm hồn vua và thái tửan vui với những ngày chim kêu vượn hú, cây cỏ núi rừng, non nước trời mây; đêmđêm thả hồn với trăng sao, cõi lòng hòa cùng với bao la vũ trụ, quên hết chuyệnđời.

Cuộc sống ẩn dật củanhà vua lặng lẽ trôi qua như dòng suối mát, tưởng thế là đã yên phận. Nào ngờ,bỗng một hôm có người Bà-la-môn đến tìm gặp vua và nói: "Tôi là người đóikhổ không đủ cơm ăn áo mặc. Nghe lời truyền rao của vua Ác-Vương rằng: Ai kiếmđược Ngài thì sẽ được trọng thưởng trăm ngàn lượng vàng và được quan tước lớn.Vì lẽ sống, tôi không quản ngại cực khổ hiểm nguy, trải qua bao ngày tháng lặnlội đó đây để tìm Ngài, thì mãi đến hôm nay mới được gặp".

Vua Hiền-Ðức nghexong, bình thản đáp: "Hiện nay ta không còn gì hết! Thôi thì ta vui lòngcho nhà ngươi cái thân mạng của ta đây, để nhà ngươi đem nộp cho tân vương thìsẽ được trọng thưởng, hưởng giàu sang, quan to chức lớn".

Nghe nhà vua Hiền-Ðứcbảo thế, người Bà-la-môn rất đỗi vui mừng nhưng làm bộ than thở nói: "Vìhoàn cảnh chứ tôi nào có đành lòng làm chuyện nầy đâu!"

Vua Hiền-Ðức từ hòanói với người Bà-la-môn: "Ngươi cứ nên làm theo ý định đã thúc đẩy ngươiđến đây tìm ta. Ta vui lòng xả bỏ thân nầy. Ðời người sớm muộn, già trẻ gì rồicũng một lần chết. Sống mà có ích cho đời thì đáng sống. Còn sống mà không cóích cho đời thì cái sống đó có ý nghĩa gì đâu? Chết mà mà có ích cho ai đượcnhiều, thì ít nhất cái chết của ta cũng giúp được cho ngươi sẽ có đời sống tốtđẹp hơn. Ðời người chỉ là một giấc mơ. Tất cả thế gian nầy đều là tạm bợ mộnghuyễn. Ngươi cứ tự tiện dùng thân mạng ta".

Người Bà-la-môn nói:"Nếu lòng từ bi của Ngài đã quyết, thì xin Ngài vui lòng theo tôi vào kinhthành để tôi hiến Ngài lên cho tân vương".

Nhà vua đôi lời từbiệt thái tử, rồi theo sau người Bà-la-môn để vào kinh thành. Thái tử kêu gàothan khóc, nhưng không dám làm phật lòng vua cha!

Vừa thấy vua Hiền-Ðứctrong phong thái thản nhiên trước bệ rồng của mình thì lòng vua Ác-Vương rấtđỗi ngạc nhiên, không dấu nỗi vui mừng đắc ý và truyền lệnh trọng thưởng chongười Bà-la-môn, đồng thời ra lệnh lập tức giam vua Hiền-Ðức vào ngục tối.

Sau khi nhốt vuaHiền-Ðức vào ngục, Ác-Vương ra lệnh truyền rao cho dân chúng biết ngày xử tửvua Hiền-Ðức bằng cách đốt sống. Dân chúng nghe tin nầy, ai nấy đều xúc độngrơi lệ khóc than như mất một bậc cha hiền. Việc gì đến rồi phải đến. Ngày đưavua Hiền-Ðức lên dàn hỏa diễn ra nơi pháp trường. Dân chúng khắp nơi trong nướcthương tiếc đổ về pháp trường như nước lũ vỡ bờ, để mong được chiêm ngưỡng bậcquốc phụ của họ lần cuối.

Riêng về thái tử, saukhi vua cha rời rừng sâu theo người Bà-la-môn về triều, thì giả dạng làm ngườithợ săn chen lẫn trong đám thường dân đông đảo đến pháp trường. Trước khi bịchâm lửa hành quyết, vua Hiền-Ðức ngước mắt nhìn trời thốt to lên mấy lời tâmhuyết cuối cùng: "Hỡi những người con hiếu thảo hãy noi gương cha mẹ hiềnđức nhân nghĩa mà dùng Từ-Bi-Hỷ-Xả nhân hậu đối xử với mọi người. Nên lấy ânbáo oán, thì oan khiên sẽ tiêu diệt. Không nên lấy thù trả oán thì thù oán sẽchất chồng, mà kiếp kiếp sẽ phải chìm đắm trong vòng sanh tử trả vay. Hãy nhớnhững lời ta đây, hỡi những người con hiếu thảo!"

Sau khi vua Hiền-Ðứcchết, thái tử trở lại núi rừng, nơi vua cha và thái tử đã từng sống qua nhữngngày tháng êm đềm thanh thoát, nhưng bây giờ đây chỉ còn lại kỷ niệm mà thôi.Thái tử một mình một bóng sống lặng lẽ với cỏ cây hoa lá thú rừng. Nhưng đôilúc thái tử nghĩ đến vua cha lòng trào dâng uất hận, quyết tìm cách báo thù.Những lúc ấy, hình ảnh của vua cha hiền từ thản nhiên ngồi trên dàn hỏa thốtlên những lời thống thiết cuối cùng lại hiện rõ về chiếm trọn tim óc của tháitử, làm cho lòng thái tử trở nên bình thản. Ðã nhiều lần nỗi uất hận trào dângthúc dục như thế, nhưng thái tử đều khắc phục dằn lòng được. Có những đêm một mìnhmột bóng dưới ánh trăng thâu, nghĩ đến cái chết của vua cha, nghĩ đến sự tantành của cả một hoàng tộc, lòng thái tử xót xa bất an uất ức, khí xung thiênsôi sục trào dâng.

Thế rồi, vào một ngàykia, nỗi oán hận căm thù xâm chiếm lòng thái tử. Thái tử không còn có thể yêntâm tiếp tục sống trong chốn u tịch rừng già, nên rời bỏ chốn sơn lâm để giảdạng người thường dân lẩn vào chốn kinh thành quyết chờ dịp báo thù cha, đền nợnước cho hả dạ. Nhờ sẵn có bẩm tánh tài trí thông minh với sự khôn ngoan lịch thiệnkhéo léo, nên thái tử đã được người giới thiệu vào làm kẻ tôi tớ giúp việc chomột vị quan đại thần triều đình. Chẳng bao lâu, thái tử đã được phép gần gũi vịquan đại thần và được lòng tin cậy, xem như người tâm phúc, cho làm cận vệ sănsóc hằng ngày. Vị quan đại thần rất đắc ý về người cận vệ tài ba lại chu đáocủa mình. Một hôm, nhân lúc cao hứng, quan đại thần hỏi: "Ngoài việc hằngngày con hầu cận bên ta, con còn có tài đặc biệt nào nữa không?"

Thái tử đáp:"Nghề nào con cũng có thể làm được. Nhưng đặc biệt là nghề nấu ăn thì concó khả năng và thích thú nhất".

Quả thật không sai,sau mấy lần nấu ăn, quan đại thần rất hài lòng về hương vị những món ăn do tháitử nấu. Từ đấy trở đi, quan đại thần lấy làm đắc ý, thường bày yến tiệc mời vuavà các quan đại thần trong triều. Ðặc biệt, mỗi lần vua dự tiệc do thái tử đíchthân đầu bếp thì đều Ác-Vương tấm tắt khen thức ăn đặc biệt ngon. Nhờ sự khéotay, chẳng bao lâu tiếng khen về tài nấu ăn của thái tử được đồn khắp cả hoàngtriều.

Biết được ý vua muốnngười đầu bếp của mình, đồng thời vị quan đại thần nầy cũng muốn đẹp lòng vua,nên đã tiến cử thái tử để cho vua dùng. Nhà vua được người đầu bếp đặc biệtxuất sắc, nên rất đỗi hài lòng. Chẳng bao lâu, thái tử được nhà vua thương mếntin cậy, phong chức quan yến trù để coi việc ăn uống và yến tiệc cho vua. Nhờcách ăn nói khôn ngoan, với tài nấu thức ăn khéo léo, chẳng bao lâu thái tửđược vua xem như người tâm phúc, luôn luôn được gần gũi bên cạnh vua. Từ ngàyđược hôm sớm hầu cận chăm sóc thức ăn cho Ác-Vương, thái tử lại càng tỏ ra tếnhị khôn khéo hiền hậu chân thật, nên Ác-Vương vô cùng thương mến tin cẩn.

Một hôm Ác-Vương bảothái tử chuẩn bị thức ăn để cùng vào rừng săn bắn. Trong lúc Ác-Vương hứng thúmải mê đuổi theo một con nai, nên bỏ đoàn tùy tùng cách xa phía sau. Chỉ cóÁc-Vương và thái tử đuổi theo nai lạc sâu vào rừng già. Ðến trưa, Ác-Vương quámệt mỏi nằm nghỉ dưới gốc cây, trao bảo kiếm cho thái tử cầm giữ. Dưới bóngmát, gió rừng phảng phất hiu hiu, hương rừng thoảng nhẹ, Ác-Vương gối đầu lênbắp vế của thái tử ngủ say lúc nào không hay.

Trong lúc đó, thái tửnghĩ rằng: "Giờ đây kẻ thù đã nằm trong tay ta rồi!" Thái tử rút gươmđịnh chém Ác-Vương. Nhưng ngay khi đó, lời trăn trối của vua cha vang vọng sốngdậy nơi lòng: "Hỡi những người con hiếu thảo! Không nên lấy oán trả oán,thì oán sẽ diệt dứt ... " Rồi thái tử lại nhè nhẹ tra thanh kiếm vào vỏ.Ba lần rút kiếm ra định chém đầu Ác-Vương. Nhưng ba lần hình ảnh của vua chaHiền Ðức hiện rõ về trong tâm thức với lời trăng trối thống thiết trước khichết trên dàn hỏa đỏ rực, làm cho thái tử ngừng tay.

Ác-Vương giựt mìnhtỉnh giấc hoảng hốt kêu to trong giọng nói kinh hoàng, đôi mắt trân trân nhìnthái tử nói: "Vừa rồi trẫm chiêm bao thấy có người cầm gươm muốn giếttrẫm! Kinh khủng quá!"

Thái tử từ tốn lễ độthưa: "Tâu Bệ-hạ! Có lẽ bệ hạ vì quá mỏi mệt, nên ngủ chiêm bao thế thôi.Có hạ thần đây rồi, ai mà dám hại Bệ-hạ! Xin Bệ-hạ cứ yên tâm".

Ác-Vương nghe ngườiđầu bếp tâm phúc của mình nói thế, lấy làm yên lòng rồi năm ngủ tiếp. Nhưngchẳng bao lâu, nhà vua lại giựt mình hoảng hốt thốt lên: "Trẫm chiêm baothấy có người rút gươm muốn giết trẫm!" Ðến lần chiêm bao thứ ba, Ác-Vươngquá kinh hãi về giấc mộng khủng khiếp, nên ngồi chỗi dậy kể cho thái tử nghe:"Trong giấc chiêm bao, trẫm thấy rõ thái tử con vua Hiền-Ðức rút gươm muốnchém ta! Lạ thật! Tại sao chỉ trong thời gian ngắn, mà trẫm đã ba lần chiêm baogiống nhau như thế nầy?" Ác-Vương rất đỗi lo âu cho mệnh hệ của mình.

Thái tử thấy thái độcủa Ác-Vương bàng hoàng khủng hoảng, động mối từ tâm, không còn muốn che dấunỗi lòng sâu kín đã ấp ủ từ lâu, liền bày tỏ tự sự với Ác-Vương: "TâuBệ-hạ! Bệ-hạ có biết chăng? Con của tiên vương Hiền-Ðức chính là hạ thần đây!Trong khi Bệ-hạ mỏi mệt say mê trong giấc ngủ, hạ thần đã ba lần rút gươm toanmuốn chém đầu Bệ-hạ để trả thù cho Phụ-vương. Nhưng nhớ lại lời phụ vương củahạ thần khi bị đưa lên dàn hỏa bức tử, trước khi nhắm mắt, người còn thốngthiết căn dặn: "Hỡi những người con hiếu thảo! Không nên lấy oán báo oán,oán sẽ chất chồng. Nên lấy ân trả oán, thì oán sẽ dứt diệt ..." Do vậy màhạ thần đã dừng tay. Và sáng nay, khi mải mê rượt đuổi nai, hạ thần cố ý làmcho Bệ-hạ lạc vào rừng sâu, chứ đâu phải hạ thần không biết lối ra! Hạ thần đãcó những việc lỗi lầm như thế, xin Bệ-hạ tùy ý xử phạt".

Ác-Vương nghe thái tửthuật xong, rất đỗi xúc động phán rằng: "Ta rất khâm phục tiên vương làbậc nhân đức.Ta rất xúc động quý mến khanh là kẻ chí hiếu đáng nêu gương chođời noi theo. Còn so lại ta đây, thật quả là kẻ quá tham ác tàn nhẫn. Giờ đâyta hiểu rõ điều thiện lẽ ác rồi. Ðúng lúc ta vui lòng đền tội để giải nỗi oankhiên khổ tâm thầm kín của khanh bấy lâu".

Nghe qua những lờinầy, thái tử quá xúc động quỳ khóc trước mặt Ác-Vương, rồi ngước mặt lên trờiphát nguyện những lời thống thiết: "Giữa Bệ-hạ và tiểu thàn nầy kể từ naytrở đi không còn thù hận gì nửa. Xin Trời Ðất và Phụ-vương chứng cho lòng thànhcủa con!"

Ác-Vương cảm động nắmlấy tay của thái tử rưng rưng rơi lệ, nghẹn ngào thốt không nên lời. Thế rồihai người, Ác-Vương và thái tử cùng nhau ra khỏi rừng già, thì thấy đoàn tùytùng đều lộ vẻ lo âu cho nhà vua, họ đã chờ đợi nhà vua từ lúc nào.

Ác-Vương hướng về đámquần thần tùy tùng nói lớn: "Các khanh hãy nghe đây! Hôm nay ta muốn chocác khanh biết một điều tối quan trọng. Các khanh có biết thái tử con của tiênvương Hiền-Ðức giờ nầy đang ở đâu không?"

Mọi người đều ngơ ngácnhìn nhau trước câu hỏi bất ngờ của Ác-Vương. Thì trong đám tùy tùng có một đạithần bước ra quỳ gối tâu rằng: "Tâu Bệ-hạ! Khi hành quyết hỏa thiêu vuaHiền-Ðức, thì thái tử con của vua ấy đã thất kinh hồn vía chạy lạc mất cho đếnnay, không còn biết tông tích ở đâu nữa cả".

Ác-Vương xoay lại nắmlấy tay thái tử giơ cao lên hướng về mọi người mà phán to rằng: "Ðây chínhlà thái tử con của tiên vương Hiền-Ðức. Ðúng là một người con chí hiếu, một bậctrung thần nhân hậu, không trả thù, mà lấy ân báo oán. Nhờ đức tánh trung hậuquân tử đó, nên ta còn được sống mà gặp lại các khanh nơi đây. Nếu không, ta đãrơi đầu nơi rừng sâu, đâu còn có cơ hội gặp lại các khanh nữa. Nay ta quyếtđịnh trả nước lại cho thái tử và làm lễ đăng quang để thái tử lên ngôi kế vìtiên vương Hiền-Ðức. Từ đây hai nước kết giao thân hữu".

Trước lời tuyên bố bấtngờ của Ác-Vương, quần thần ngơ ngác ngạc nhiên. Sau đó, thái tử được suy tônlên ngôi vua, dân chúng cả nước vạn triệu người như một hân hoan khấp khởi vuimừng, âu ca lạc nghiệp.

Giảng xong câu chuyệntiền kiếp trên đây, đức Phật hướng về đại chúng nói rằng: "Vị Ác-Vương ởthời quá khứ kia chính là Ðề-Bà Ðạt-Ða. Còn vị thái-tử trung hiếu kia là tiềnthân của A-Nan. Vị vua Hiền-Ðức thời quá khứ đó chính là tiền thân của Thích-CaNhư-Lai đây vậy".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/03/2017(Xem: 8193)
Mỗi sáng Chủ Nhật , quý Sư ở tu viện Santi Forest Monastery thường chuẩn bị rời chùa, đi xuống phố hoặc vào làng khất thực. Gọi là “đi khất thực”, nhưng thực sự nên gọi là “đi gieo duyên” với quần chúng địa phương thì đúng hơn, cư dân nơi đây, họ là những người Úc thuần túy, Phật giáo đối với họ là một tôn giáo hoàn toàn xa lạ, có thể họ chỉ nghe qua cái tên “ Buddhism “ mà không hề biết đó là gì ?
21/03/2017(Xem: 5595)
Đây là một tập bút ký, ghi lại cảm nghĩ của tác giả từ các nơi chốn tùng lâm ở Nhật Bản, Trung Hoa, Việt Nam. Không hề có một so sánh hay đánh giá ở đây, tất cả đều trình hiện như nó chính là nó. Chúng ta cũng vui đọc theo chân người đi, đôi lúc mình cũng là người đang đi như thế. Chiều thu muộn hay sáng hồng rực rỡ, một viên sỏi trong vườn thiền cũng chiếu rọi ánh tuyết lấp lánh. Tách trà xưa và nay cùng nâng lên để kỷ niệm giây phút tao phùng.
20/03/2017(Xem: 5200)
Đặt chân xuống phi trường Bordeaux, tôi thấy một cảm giác nao nao vui mừng và hối hộp. Tôi sắp đựơc gặp các huynh đệ và Thầy, tôi sắp đựơc trở về Làng Mai, nơi Thầy và Tăng Thân đã sinh ra tôi, đã cho tôi một hình tứơng sư cô trong tinh thần giải thóat. Nhìn ra ngòai cửa, các Thầy các sư cô đang vẫy tay chào đón chúng tôi, rồi quí‎ vị vào trong khu vực chuyển hành lí tiếp chúng tôi vận chuyển lên xe, về Làng.
20/03/2017(Xem: 5378)
Cuộc sống của chúng ta có những lúc cần phải suy gẫm về ý nghĩa về đạo lý làm người. Ngày xưa có một người gánh nước, mang trên vai hai chiếc bình. Trong hai bình ấy có một bình bị vết nứt, còn bình kia thì nguyên vẹn. Suốt một chặng đường dài từ nơi mé sông về nhà, chiếc bình nứt chỉ còn một nửa. Thời gian đã tròn ba năm, ngày nào cũng vậy, người gánh nước chỉ mang về đến nhà chỉ có một bình rưỡi nước.
28/02/2017(Xem: 12690)
Đó là câu chuyện về Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche qua đời năm 2001. Có nhiều chuyện kỳ lạ trở thành mầu nhiệm sau khi Ngài ra đi.
24/02/2017(Xem: 4008)
Một buổi xế trưa nắng hơi nghiêng về chiều, cái sân nhỏ trước hiên, nhờ bóng nhà đầy râm mát. Đàn gà ri -một mẹ, một bố và tám con- đang líu ríu bươi đất cát nơi chân hàng rào. Công việc thật thừa thãi, nhàm chán, tôi chắc chắn chúng chả tìm thấy gì trong đám cát khô cằn không một ngọn cỏ một bóng cây. Thế mà đã nhiều ngày, cứ giờ này, chúng lại luẩn quẩn quanh đấy, bươi đất cát, nô giỡn ra điều thích thú lắm. Không ai đoán được chúng rất tinh khôn. Vì vào giờ này, sau khi đánh một giấc ngủ trưa, tôi vẫn có thói quen mở nắp lon guigoz vốc một nắm gạo nàng hương mà tôi đã xay nhỏ bằng cối xay tiêu, một ít thóc, rồi thong thả ra sân chưa kịp cất tiếng…cộc...cộc…cộc…để gọi đàn gà ri, chúng đã ùa chạy tới, như một thói quen, đợi tôi cho ăn. Tôi rải gạo, thóc trên khoảng sân nhỏ bằng xi măng bên hông cửa ra vào. Những con gà ri con chỉ mới nở hơn tuần nay, lông trắng ngần, lăng xăng chạy theo bố mẹ, như những trái ping pong. Chúng vươn cánh và dù cố gắng nhiều lần để nhảy lên thềm nhà như
23/02/2017(Xem: 4589)
Họ đã kết hôn được 78 năm, người chồng 103 tuổi, người vợ 100 tuổi, họ vẫn ở bên nhau suốt ngần ấy năm tháng, mạnh khỏe và hạnh phúc. Trong ngày Valentine năm nay, câu chuyện về họ được biết tới, chia sẻ và gây cảm động.
22/02/2017(Xem: 36812)
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA CON TRAI CỦA TÔI (DALAI LAMA, MY SON) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tác giả: Diki Tsering Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup Việt dịch: Thích Nguyên Tạng Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
05/02/2017(Xem: 4113)
Khi tôi lên giường, kim đồng hồ chỉ 23 giờ 30. Thông thường vào giờ này, vốn dễ ngủ, không mộng mị, nếu có, chỉ toàn giấc mơ hoa, không bao giờ gặp ác mộng, tôi đã ngáy khò khò; thế mà hôm nay, tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Nằm trăn trở trong đêm, tôi lắng nghe âm thanh của đêm. Sài Gòn giờ này đã trả lại sự yên vắng cho nó. Không còn tiếng rao hàng, không còn tiếng người qua lại, không còn tiếng xe cộ? Lâu lắm mới có chiếc Honda xẹt ngang của vị nào đi chơi khuya về.
03/02/2017(Xem: 3822)
Thời gian đã vẽ thêm một vòng hào quang cho quá khứ thêm lộng lẫy đẩy lùi tất cả vào dĩ vãng trong một ngăn nào đó của bộ nhớ, và tuổi già thường hay hoài niệm những ngày cũ mà ngậm ngùi nuối tiếc. Tuổi già đối với những người khác không biết thế nào nhưng riêng tôi lại thích tham dự những buổi họp mặt với bạn bè cũ, gặp lại nhau biết bao mừng vui tràn ngập cả tâm tư. Tôi lại định cư tại một nước xa xôi lạnh lẽo, bạn bè ngày xưa không có, thành ra tôi cứ ao ước được bay đến những vùng trời khác. Nơi đó có những người bạn thời trung học thật tuyệt vời, là niềm an ủi cho mái tóc đã điểm bạc trong cuộc sống cách biệt quê người vạn dặm này. Tôi nhớ lại lần tôi qua Cali dự lễ kỷ niệm 50 năm xa trường. Đêm Đại hội đã để lại trong tôi quá nhiều cảm xúc, suy nghĩ; sự suy nghĩ với nhiều thứ pha trộn nhau. Với tôi, đó cũng là một sự hạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]