Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

69. Thượng tọa Thái Nguyên

05/06/201115:05(Xem: 9630)
69. Thượng tọa Thái Nguyên

CAO TĂNG DỊ TRUYỆN
(Truyện Kể Các Vị Cao Tăng Trung Quốc)
Hạnh Huệ biên soạn - Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

69. THƯỢNG TỌA THÁI NGUYÊN

Thượng tọa Thái Nguyên Phù, lúc đầu ở chùa Quang Hiếu Dương Châu. Sư giảng kinh Niết Bàn, hôm ấy có Thiền giả bị tuyết cản trở phải ở lại vùng này, nhân vậy đến nghe Sư giảng, đến chỗ "Tam nhân Phật tánh, tam đức Pháp thân". Sư bàn rộng về diệu lý Pháp thân. Vị thiền giả phá ra cười. Sư giảng xong, mời Thiền giả uống trà và thưa:

- Tôi vốn chí hẹp hòi, cứ y văn mà giải nghĩa. May nhờ Ngài thấy được mà cười. Mong Ngài chỉ dạy.

Thiền giả nói:

- Sự thật tôi cười vì tọa chủ không biết Pháp thân.

Sư thưa:

- Tôi hiểu như thế có chỗ nào không đúng?

Thiền giả nói:

- Mời Tọa chủ nói lại một lượt đi!

Sư bảo:

- Lý Pháp thân như bầu thái hư, dọc suốt ba đời, ngang trùm mười phương, cuốn gọn tám cực, bao quát âm dương, tùy duyên cơ cảm, không đâu chẳng khắp.

Thiền chủ nói:

- Không phải tôi bảo Thầy nói không đúng. Nhưng đó chỉ nói được bên cạnh Pháp thân, chứ thực chưa hề biết Pháp thân.

Sư nói:

- Đã thế, xin Thiền đức cho tôi được nghe.

- Nhưng liệu Tọa chủ có chịu tin chăng?

- Tôi đâu dám chẳng tin.

Thiền giả nói:

- Tọa chủ thử ngưng giảng một tuần, đóng cửa ngồi yên, thu nhiếp tâm niệm, các duyên thiện ác một lúc buông hết.

Sư theo lời khuyên, từ đầu hôm đến canh năm, nghe tiếng đánh trống, hốt nhiên khế ngộ. Sư liền đến gõ cửa Thiền giả. Thiền giả hỏi:

- Ai đó?

Sư thưa:

- Tôi đây!

Thiền giả quát:

- Tôi bảo ông chuyên trì đại giáo, thay Phật thuyết pháp, sao giờ giữa đêm lại nằm say sưa giữa đường vậy?

Sư thưa:

- Thiền đức ! Từ trước đến giờ, tôi giảng kinh đều lấy lỗ mũi của cha mẹ sanh ra. Từ nay về sau, tôi trọn không dám thế nữa.

Thiền giả nói:

- Ông đi đi! Bữa khác gặp!

Sư bèn bãi giảng, đi khắp các nơi, danh vang khắp chốn. Sư dạo khắp vùng Chiết Giang, lên pháp hội Kính Sơn. Một hôm Sư đến trước đại Phật điện. Có tăng hỏi:

- Thượng toạ đã từng đến Ngũ Đài chưa?

- Rồi.

- Có thấy Ngài Văn Thù chăng?

- Thấy.

- Thấy Ngài ở đâu?

- Thấy trước điện Phật ở Kính Sơn.

Vị tăng này sau đến Mân Châu, kể lại cho Tuyết Phong, Tuyết Phong nói:

- Sao chẳng bảo ông ta lại đây!

Sư nghe được liền đến. Vừa đến chân núi, Sư dừng nghỉ ở nhà nghỉ (giải viện), lấy cam chia cho mọi người. Trường Khánh hỏi:

- Đem từ đâu đến?

Sư đáp:

- Từ ngoài núi.

- Lặn lội xa xôi, gánh được đến đây không phải dễ.

Sư kêu lên:

- Cam, cam!

Ngày hôm sau Sư lên núi, Tuyết Phong hay tin bèn nhóm chúng. Sư lên pháp đường quay nhìn Tuyết Phong, rồi nhìn xuống tri sự. Ngày mai mới lên lễ bái, thưa:

- Hôm qua con xúc phạm Hòa thượng.

Ngài Tuyết Phong nói:

- Biết là việc quanh co thì thôi.

Một hôm, Tuyết Phong thấy Sư liền chỉ mặt trời, Sư phất tay mà đi. Tuyết Phong nói:

- Ông không chấp nhận ta sao?

Sư nói:

- Hòa thượng lắc đầu, con vẫy đuôi. Có chỗ nào con không chấp nhận đâu?

Tuyết Phong nói:

- Rốt ráo cũng không kiêng tránh.

Một hôm chúng tăng vãn tham, Tuyết Phong nằm ngủ trong phòng. Sư bảo:

- Trong khắp năm châu, may có lão Hòa thượng này đáng nể chút ít.

Tuyết Phong liền ngồi dậy đi ra.

Ngài thường hỏi Sư:

- Nghe nói Lâm Tế có ba câu phải không?

- Dạ phải.

- Câu thứ nhất ra sao?

Sư đưa mắt nhìn Ngài. Tuyết Phong nói:

- Đây vẫn còn là câu thứ hai. Thế nào là câu thứ nhất?

Sư xoa tay mà lui ra.

Từ đó, Tuyết Phong biết Sư là bậc đại pháp khí, vào thất ấn giải cho Sư. Sư nhờ đó khế hợp với đạo, bèn ở lại đây, trông coi nhà tắm.

Một hôm Huyền Sa lên thăm Tuyết Phong. Tuyết Phong nói:

- Ở đây có một con chuột già, đang ở trong nhà tắm.

Huyền Sa nói:

- Đợi tôi khám nghiệm cho Hòa thượng!

Nói xong, Ngài đi xuống nhà tắm, gặp Sư đang xách nước, Huyền Sa nói:

- A! Gặp được Thượng tọa đây!

Sư nói:

- Đã gặp nhau rồi.

Huyền Sa nói:

- Gặp nhau ở kiếp nào?

Sư nói:

- Nói mớ làm chi?

Huyền Sa bỏ về phương trượng, trình lại Tuyết Phong, nói:

- Tôi đã khám phá xong.

Tuyết Phong hỏi:

- Khám phá ra sao?

Huyền Sa kể lại, Tuyết Phong bảo:

- Ông thua rồi!

Cổ Sơn hỏi Sư;

- Lúc cha mẹ sanh, cái lỗ mũi ở chỗ nào?

Sư bảo:

- Lão huynh nói trước đi!

Cổ Sơn nói:

- Như đời nay vậy. Còn ông nói sao?

Sư không chấp nhận. Cô Sơn hỏi:

- Chứ làm sao?

Sư bảo:

- Đưa giùm cái quạt lại đây!

Cổ Sơn đưa quạt rồi hỏi lại. Sư phe phẩy quạt không đáp. Cổ Sơn mờ mịt, đấm Sư một đấm.

Sau Cổ Sơn nhận lời mời của vua về kinh. Tuyết Phong đưa ra cửa, cùng đến pháp đường mới nói:

- Một mũi tên Thánh sắp bắn thẳng vào thành vua!

Sư nói:

Ông ta chưa được đâu!

Tuyết Phong nói:

- Ông ta thấu triệt rồi.

Sư nói:

- Không tin, để tôi đi khám nghiệm cho.

Rồi đuổi theo đến giữa đường, hỏi:

- Sư huynh đi đâu vậy?

- Vào thành vua.

- Lỡ khi gặp ba quân vây hãm thì sao?

- Tự có con đường thông khác.

- Vậy là đã bỏ cung mất điện rồi.

Cổ Sơn nói:

- Có chỗ nào mà không tôn quý?

Sư bèn phất áo trở về. Tuyết Phong hỏi thăm. Sư nói:

- Mũi tên ấy bị bẻ gẫy giữa đường rồí!

Rồi kể lại chuyện trên. Tuyết Phong nói:

- Ông bị thua rồi! Ông ta nói được đấy!

Sư nói:

- Lão già này máu lạnh mà cũng còn chút tình cố hương.

Sư đứng trước kho, có người hỏi:

- Thế nào là chạm mắt tức Bồ đề?

Sư đá con chó một cái, chó kêu ăng ẳng bỏ chạy. Tăng không hiểu, Sư bảo:

- Con chó nhỏ không tiêu được một đạp!

Bảo Phước đang xẻ dưa thấy Sư đến. Bảo Phước nói:

- Nói được thì cho ông ăn!

Sư nói:

- Đưa đây!

Bảo Phước đưa Sư một miếng, Sư cầm lấy bỏ đi.

Sư không xuất thế, mọi người gọi Sư là Thượng tọa Thái Nguyên Phù. Sau Sư về Duy Dương, Thượng thư họ Trần lưu lại cúng dường. Một hôm Sư bảo Thượng thư rằng:

- Mai tôi sẽ giảng một biến kinh Đại Niết Bàn để báo đáp tình của Thượng thư.

Đúng hẹn, Thượng thư thiết trai. Sau khi trà nước xong, Sư thăng tòa, làm thinh hồi lâu, đập thước xuống bàn một một cái, nói:

- Tôi nghe như vầy.

Rồi gọi:

- Thượng thư!

- Dạ.

Sư nói:

- Nhất thời Phật tại.

Và tịch luôn.

52. THIỀN SƯ QUY TÔNG TUYÊN

Thiền Sư Quy Tông Tuyên, người Hán Châu, nối pháp Ngài Lang Gia Quảng Chiếu kết thân với Quách Công Phủ. Chợt một hôm có quan trấn thủ Nam Khang đến, Sư sai người đem thơ cho Công Phủ lại dặn người đưa thơ chớ cho quan huyện trông thấy. Công Phủ đọc thơ thấy ủy thác rằng:

- Tôi còn sáu năm duyên đời chưa hết, hôm nay không chịu nổi áp bức muốn thác sanh vào nhà ông, mong ông chiếu cố cho.

Công Phủ vừa sợ vừa mừng, nửa đêm bà vợ mơ màng thấy Sư vào trong phòng ngủ, bất giác thất thanh nói:

- Đây không phải là chỗ Hòa thượng đến.

Công Phủ hỏi duyên cớ, bà vợ kể lại. Công Phủ sai đốt đền, lấy thơ của Sư cho coi. Quả nhiên sau bà vợ có thai sanh con đặt là Tuyên Quang. Vừa đầy năm đã nhớ hỏi chuyện trước.

Đến ba tuổi, Hòa thượng Bạch Vân Đoan đi qua nhà này, Công Phủ kêu con ra tương kiến, vừa thấy kêu lên:

- Sư Điệt! (cháu).

Hòa thượng Đoan nói:

- Cùng Hòa thượng từ biệt nhau đã mấy năm rồi?

Tuyên co ngón tay nói:

- Bốn năm.

Hòa thượng Đoan nói:

- Tương biệt tại đâu?

- Tại Bạch Liên Trang.

- Lấy gì để chứng nghiệm?

- Cha mẹ tôi ngày mai sẽ mời Hòa thượng thọ trai.

Chợt có tiếng đẩy xe qua ngoài cửa. Hòa thượng Đoan nói:

- Tiếng gì ngoài cửa vậy?

Tuyên làm thế đẩy xe. Hòa thượng Đoan nói:

- Qua thế nào?

- Đất bằng có một rãnh nước.

Đến sáu tuổi không bệnh mà chết.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3848)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3134)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2967)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2794)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3243)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2631)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4174)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3198)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3345)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]